Phân Tích Đặc Điểm Ngôn Ngữ Văn Học

Ngôn ngữ trong tác phẩm văn học

Video Ngôn ngữ trong tác phẩm văn học

Ngôn ngữ là công cụ, là chất liệu cơ bản của văn học, vì vậy văn học được gọi là loại hình nghệ thuật ngôn từ. Mét. Gorky nói rằng ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên của văn học.

ngôn ngữ của con người là nguồn gốc của ngôn ngữ văn học; đến lượt mình, được chọn lọc và rèn giũa thông qua lao động nghệ thuật của nhà văn, góp phần nâng cao và làm phong phú thêm ngôn ngữ của nhân dân.

trong tác phẩm, ngôn ngữ văn học là một trong những yếu tố quan trọng thể hiện cá tính, phong cách và tài năng sáng tạo của nhà văn. mỗi nhà văn lớn luôn là tấm gương sáng về sự am hiểu sâu sắc ngôn ngữ nhân dân, miệt mài trau dồi ngôn ngữ trong quá trình sáng tác.

độ chính xác, độ chính xác, tính đa nghĩa, tính tượng hình và tính biểu cảm là những thuộc tính của ngôn ngữ văn học. Cơ sở chủ yếu để phân biệt ngôn ngữ văn học với các hình thức hoạt động ngôn ngữ khác là ngôn ngữ văn học là hình thức hoạt động ngôn ngữ mang ý nghĩa thẩm mỹ. nó được sử dụng để hoàn thành nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng hình tượng văn học và nghệ thuật giao tiếp. do đó, hình ảnh, tính thẩm mỹ là thuộc tính cốt yếu, xuyên suốt các thuộc tính khác, quyết định các thuộc tính đó.

Những thuộc tính chung trên được thể hiện qua các thể loại văn học với những sắc thái khác nhau. ngôn ngữ của tác phẩm trữ tình là ngôn ngữ được tổ chức từ nhịp điệu hết sức cô đọng, súc tích và trên hết là sức gợi. ngôn ngữ của tác phẩm kịch là ngôn ngữ của nhân vật được kết cấu thông qua hệ thống lời thoại và gần với tiếng nói chung của nhân dân. ngôn ngữ của tác phẩm tự sự, cũng giống như ngôn ngữ của tác phẩm kịch, là ngôn ngữ đa dạng, ngôn ngữ của nhiều tính cách. tuy nhiên, điểm khác biệt quan trọng giữa ngôn ngữ của tác phẩm kịch và ngôn ngữ của tác phẩm tự sự là trong tác phẩm tự sự, ngôn ngữ của người kể có vai trò quyết định đối với toàn bộ cấu trúc ngôn ngữ của tác phẩm.

đặc điểm của ngôn ngữ văn học

Các nhà văn đã sử dụng ngôn ngữ của toàn dân để tạo ra tác phẩm văn học, nhằm tạo ra ngôn ngữ văn học. có sự khác biệt giữa ngôn ngữ đời sống và ngôn ngữ văn học. Theo Gorky, ngôn ngữ của người dân là ngôn ngữ của “nguyên liệu thô”, và ngôn ngữ văn học là ngôn ngữ đã được đào tạo bởi những người thợ lành nghề.

Ngôn ngữ văn học có những đặc điểm riêng:

1- ngôn ngữ văn học phải chính xác, tinh tế và biểu cảm.

Thông thường một khái niệm có nhiều từ để mô tả nó, nhưng chỉ một từ là đúng, chính xác ý của người viết. trong khi viết, người viết phải chọn từ nào là đúng nhất. các nhà văn cổ điển có hiểu biết sâu sắc về ngôn ngữ, vì vậy tác phẩm của họ có giá trị lâu dài.

nguyen du left thuy van:

“… mây rụng tóc, tuyết nhường màu da”

và mô tả thuy kiều:

“… hoa ghen thua thắm, liễu hờn hờn vu vơ: xanh tươi”

“thua cuộc” và “bỏ cuộc”, “ghen tị” và “ghét bỏ” là những từ “định mệnh” của hai nhân vật, hoàn toàn chính xác.

tan da đã coi các từ “tuồng” và “khô” cho câu thơ:

“một dòng nước mắt để mong chờ mỗi ngày”

y: “dòng lệ cạn chờ ngày”

Xem thêm: Giới thiệu về tác giả Nguyễn Tuân- người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp – Văn mẫu học sinh

cuối cùng, tác giả chọn từ “khô” vì nó sâu sắc hơn, chính xác hơn, tinh tế hơn.

+ bài văn phải dùng đúng từ ngữ để tái hiện, tái hiện đúng sự vật, hiện tượng, tả đúng cảnh, miêu tả đúng hình dáng, tính cách, tâm lí của nhân vật. qua đó người nghệ sĩ bộc lộ suy nghĩ, tình cảm, thái độ và cả tài năng của mình. + hơn năm trăm năm trước, nguyễn trai đã viết: “đêm rằm trăng thanh, ngày vắng ngắm cỏ cây hoa lá”

khi phiên được đọc bằng các script nom, script quốc ngữ, một số người đọc là “bo” trong “default”. Spring Magic đã gặp lỗi này. Ông cho rằng “bơ” là đúng tâm hồn và phong cách của người anh hùng: một nghệ sĩ giàu lòng nhân ái, một tâm hồn yêu cái đẹp như đông triều. điệp từ khiến hình tượng chủ thể trữ tình trong thơ hiện lên với vẻ đẹp của một bậc hiền triết phương Đông. nhà hiền triết ấy thích ẩn dật ở nơi vắng vẻ, tìm kiếm những con thú cao quý để tâm hồn mình được tự do và vĩnh viễn thanh thản. Vì vậy, ban đêm, Nguyễn Trãi kết bạn với trăng. anh nghiêng ly để ánh trăng hòa cùng rượu và uống trăng bằng men say nồng nàn và cao quý ấy. và ánh sáng của vũ trụ đã đi vào tâm hồn ông, để ông sáng như một vì sao. cái ngày mà “làm hư” hoa vì hoa mỏng manh và ít vẻ đẹp. yêu cuộc sống, vì vậy hãy trân trọng cuộc sống. nếu đổi “xóc” thành “vỡ” thì đã vô tình đày ải thơ và nguyễn đưa vào giữa cõi trần một cách dã man. và như vậy chất thơ sẽ biến mất và hồn thơ cũng biến mất.

về tính năng này, chúng ta cũng nên nhớ ý kiến ​​của vich-to huy-go. Anh nói: “Trong tiếng Pháp, không có từ tốt, không có từ xấu, mỗi từ đặt đúng chỗ đều là từ tốt”.

trên thực tế, chúng ta hãy tận hưởng vẻ đẹp của ‘vị trí’ đó:

Xem Thêm : Khái quát về Những ngôi sao xa xôi

“Cơm ngăn tôi”

(tran huu thung)

Từ “tuân thủ” rất quen thuộc, đặt trong bối cảnh này, ý nghĩa càng trở nên vô cùng to lớn.

“Tôi sẽ nhớ bạn”

(viet bac – to huu)

Từ “tôi” rất cũ và được dùng với nghĩa mới để thể hiện nội dung tư tưởng cách mạng.

Giống như Mayakovsky đã nói rằng “làm thơ nặng bằng 1/1000 mg khoáng chất”.

2 – đặc điểm thứ hai: hình tượng của ngôn ngữ văn học

Tính hỉnh tượng của ngôn ngữ văn học

ngôn ngữ có thể được chia thành hai loại: ngôn ngữ nhận thức và ngôn ngữ gợi mở. ngôn ngữ gợi là ngôn ngữ tượng hình. nhà văn phản ánh hiện thực và thế giới nội tâm bằng tư duy hình tượng và lôgic của mình phải mượn ngôn ngữ tượng hình để xây dựng hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm của mình. hình ảnh không trừu tượng mà có sức gợi cảm cụ thể. một số ví dụ: ca dao:

“Hãy nghe giọng tôi chơi êm và mượt như lụa” trong truyện kiều:

“cỏ xanh xanh tận chân trời, cành lê trắng điểm xuyết vài bông hoa” “dưới trăng đỗ quyên, hè gọi đầu tường lửa, hoa lựu nở” “ nước đáy soi bóng trời, khói xanh non phơi bóng vàng “nguyễn khuyển:” trời thu xanh biếc, lầu trên cây trúc liêu xiêu “- (Vịnh thứ năm)

Trí tưởng tượng gắn liền với tính đa nghĩa, ngắn gọn, chính xác và biểu cảm của ngôn ngữ văn học. những hình ảnh tác động sâu sắc đến cảm xúc người đọc, tạo ấn tượng sống động về sự vật được phản ánh, từ đó thể hiện tình cảm, thái độ của tác giả. “Một chiều tôi trở về quê mẹ nuôi già, nắng trải dài, bờ cát lộng gió, sóng biển rung rinh lạnh lùng, lòng ta ngân nga”

Xem thêm: Giá trị nhân đạo là gì? Tổng hợp những thông tin bạn cần biết! –

(trở thành – mẹ)

Ngôn ngữ văn học không trừu tượng như ngôn ngữ triết học, chính trị hoặc ngôn ngữ ký hiệu như một số ngành khoa học.

ngôn ngữ văn học trực tiếp xây dựng hình tượng trong tác phẩm nên không trừu tượng mà mang tính chất cảm xúc cụ thể.

ngôn ngữ gợi ý màu sắc:

vườn ai mềm mại, xanh tươi như ngọc. ”

(đã chết)

“trong vườn, màu đỏ nguyền rủa màu xanh”

(phép thuật mùa xuân)

“tường lửa ngắt quãng granada”

(nguyen du)

ngôn ngữ phác thảo:

Xem Thêm : Phân tích tác phẩm Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng – HOCMAI

“buông rèm”

ba âm ‘e’ (chết chóc, thơ mộng, tơ lụa) gợi ý những đường viền rải rác của lá liễu.

“súng kề súng sát đầu”

(công bằng)

hình ảnh của tình đồng hành: đường thẳng (súng) của ý chí hài hòa với đường cong (đầu) của tình cảm.

Xem thêm: Phân Tích Bài Thơ Chú Bò Tìm Bạn ❤️ 5 Bài Cảm Nhận Hay

ngôn ngữ hình khối:

“trăng cổ nguyệt lồng hoa”

(Hồ Chí Minh)

“cây cổ thụ” là một khối lớn thể hiện sự hùng vĩ của núi rừng. “hoa” là một nét nhỏ nhẹ tượng trưng cho vẻ đẹp thơ mộng của núi rừng. mọi thứ đều nhuốm màu ánh trăng, thật kỳ diệu.

“tầng mây cao hun hút núi bạc, chim nghiêng cánh che nắng chiều”.

Từ “đùn” mô tả sự chuyển động của những đám mây giống như những ngọn núi màu bạc. Bên cạnh đám mây khổng lồ đó, cánh chim ngày càng nhỏ. huy cận đã diễn tả một cách tài tình tâm trạng cô đơn trong tâm hồn nhà thơ.

nhà thơ thành huu đã miêu tả tâm trạng của mình khi thăm lại người mẹ nuôi đã lớn tuổi của mình bằng ngôn ngữ thơ giàu hình ảnh và âm nhạc:

Tôi trở về quê mẹ nuôi già trong một buổi chiều nắng dài, bãi cát lộng gió, sóng vỗ rì rào và lòng ta đang hát câu hát

nhà thơ cho rằng: “nhịp của hai câu thơ là nhịp của sóng, của gió và cũng là nhịp của niềm xúc động, niềm vui trong lòng người về quê cũ, nơi đã nuôi dạy con thơ. .

3- đặc điểm thứ ba của ngôn ngữ văn học là tính biểu cảm.

ngôn ngữ văn học là tính biểu cảm

– Tính biểu cảm được thể hiện thông qua việc làm trên hình ảnh chung và ngay cả trong những từ ngữ cụ thể. tính biểu cảm thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như gián tiếp, trực tiếp, trực quan, hoặc ngôn ngữ đơn thuần. tuy nhiên, biểu cảm nhất là khi tác giả muốn nhấn mạnh nội tâm. – một số ví dụ: + “sông lở, lội cá biết bao người bó đường”

(câu hát) + “bốn bề bàng bạc, biển trong vắt, hồn tôi run rẩy bốn bề, sương bạc lặng im, đêm đêm nín thở nghe nhạc đến sao khê” ( xuan dieu – nguyet cam) + “ngọn núi ngọn đèn không bao giờ nhắm mắt như linh hồn không bao giờ tắt như miền nam không ngủ được đêm như cả nước và miền nam hằng đêm thao thức” (công lý – ngọn đèn chân)

Ngôn ngữ văn học không những phải chính xác, nghĩa bóng mà còn phải có giá trị biểu đạt. văn học bộc lộ trực tiếp tình cảm của người viết thông qua ngôn ngữ văn học. nghệ sĩ giàu cảm xúc nên ngôn ngữ văn học có tính biểu cảm. Tất nhiên, tính biểu cảm có thể thể hiện theo nhiều cách: trực tiếp, gián tiếp, hình ảnh hoặc hoàn toàn bằng lời nói.

khi nguyen trai viết: “Ông nướng con đen trong lửa dữ”, chữ “nướng” hàm chứa tinh thần căm giận của ông đối với kẻ thù.

Khi bạn bon chen viết: “Tôi nghe nói bọn trộm đánh nó”, từ “tùm lum” đã diễn tả chính xác hành vi của tên trộm và cũng bộc lộ thái độ châm chọc, giễu cợt Thượng Quan Thanh.

khi xuân điều viết: “cánh cò lặn lội băn khoăn” thì cánh cò ấy lại mang đầy tâm trạng từ trái tim yêu thương của thi nhân. khi lan viên viết “là tôi, nhưng tôi vẫn yêu tôi” thì anh ấy đã quá say mê cuộc sống, quá tự hào về thời đại và dân tộc mà anh ấy đã miêu tả bằng ngôn ngữ trần trụi như vậy.

Văn học là một hình thái ý thức xã hội và cũng là một loại hình nghệ thuật, nhưng văn học khác với các môn nghệ thuật khác bởi đặc trưng là chất liệu sáng tạo. ngôn ngữ văn học chính xác, ngắn gọn, đa nghĩa, tượng hình và biểu cảm. ngôn ngữ văn học tạo nên hiệu ứng và hiệu ứng thẩm mỹ cho văn bản văn học. tuy nhiên, ngôn ngữ văn học chỉ có thể đẹp và phát huy được phẩm chất của mình khi người viết thực sự có tài, có năng lực làm chủ ngôn ngữ, có cá tính sáng tạo độc đáo. tsekhov: “Mỗi nhà văn phải có cách nói riêng của mình. Nếu tác giả không có cách nói của riêng mình thì không bao giờ là nhà văn. hoặc hd balzac: “nghệ sĩ càng vĩ đại, thế giới tác phẩm của chính anh ấy càng nổi bật.”

Như vậy, phê bình văn học đã đi sâu phân tích những đặc trưng cơ bản của ngôn ngữ văn học . Trong quá trình phân tích tác phẩm, học sinh phải hiểu rằng “ngôn từ là hiệp sĩ không thể thay thế của các bậc công tử” và “mỗi từ ngữ đều có khả năng khơi gợi sự liên tưởng sâu rộng”

Nguồn: https://truongxaydunghcm.edu.vn
Danh mục: Văn Học

Related Articles

Back to top button