TIỂU SỬ LUDWIG VAN BEETHOVEN (1770-1827) – HOANG VAN ART

Tác phẩm nào của nhạc sĩ người đức ludwig

Video Tác phẩm nào của nhạc sĩ người đức ludwig

Nhạc sĩ Beethoven tên đầy đủ là Ludwig van Beethoven, sinh ngày 16 tháng 12 năm 1770 tại Bonn, Đức. cha là johann Beethoven và mẹ là maria magdelena van Beethoven. johann là một ca sĩ giọng nam cao trong nhà thờ. Vì hoàn cảnh gia đình nghèo khó, cha của Ludwig hy vọng con trai mình sẽ là một thần đồng như Mozart, ông sẽ đi khắp châu Âu để hỗ trợ gia đình. nhưng ludwig không thể hiện được ý muốn của cha mình, người cha trở nên chán nản. Nhưng sau đó cậu bé Beethoven trở nên bướng bỉnh, mâu thuẫn với cha mình. đó là những ngày tháng lớn lên khốn khổ của ludwig van Beethoven.

TIỂU SỬ LUDWIG VAN BEETHOVEN (1770-1827) - HOANG VAN ARTĐến năm 8 tuổi, Beethoven mới chính thức trình diễn cho công chúng xem. Sang năm 12 tuổi Beethoven bỗng trở nên là một tay chơi dương cầm xuất sắc, mang nhiều triển vọng cho tương lai và tòa Tổng giám mục tại Bonn mướn chơi đàn, mà mức lương Beethoven kiếm được cao hơn cha ông gấp bội. Tới năm 17 tuổi, Tòa Tổng giám mục thấy tiềm năng dương cầm đầy hứa hẹn của Beethoven nên bảo trợ cho ông du hành sang Áo với mục đích theo thọ giáo kỹ thuật dương cầm cao cấp của tay đàn cự phách, lẫy lừng Mozart tại Vienna, khi ấy Mozart được 30 tuổi. Mozart thấy ngay tài năng đang lên của Beethoven, nên chỉ dẫn thêm. Ông ở và học nghề với Mozart được hai tháng thì chẳng may ông nhận được tin mẹ ông qua đời. Ông vội vã quay trở lại Bonn chịu tang mẹ. Đến năm 1792, ôg được 22 tuổi càng say mê đàn hơn và muốn thăng tiến thêm, ông trở lại Vienna, lần này ông theo học kỹ thuật đàn từ các tay dương cầm nổi danh của Vienna như Haydn, Schenck, Albrechtsberger và Salieri. Cùng năm đó cha ông qua đời, là người anh cả ông đem hai người em trai về nuôi bên Áo. Người em kế Kaspar Karl Beethoven sau này trở thành thầy giáo dạy âm nhạc, người em út Nikolaus Johann Beethoven trông coi một cửa tiệm bán thuốc do Ludwig giúp đỡ. Trong thời gian ở tại Vienna, giới thưởng ngoạn âm nhạc xem ông là tay dương cầm quý giá. Tài nghệ ông mỗi lúc mỗi điêu luyện, tên tuổi vang dội tại Âu châu. Có điều là ông đã va chạm nặng với Haydn, người đã từng hướng dẫn ông khi trước. Khi ông cho là ông không học được điều chi mới lạ ở Hayd. Ngược lại Haydn chứng minh là bài Đại hợp tấu số Một (the First Symphony) mà Beethoven sáng tác mang âm hưởng nhạc của Haydn và Mozart, tức Beethoven đã ảnh hưởng phong cách viết nhạc của 2 người này. Có dư luận đàm tiếu cho là Beethoven là người tự cao và khó chịu. Sự thực điều đó hầu như là đặc tính chung của nhiều ngôi sao hay các vì tinh tú trị vì trên đỉnh cao của danh vọng và vinh quang. Người ta cũng ghi nhận là Mozart cũng có tính khó chịu và tự mãn về mình. Vì mặc cảm bị cho nhạc ông mang nặng âm hưởng nhạc người khác, ông quyết định đi tìm sự mới lạ khi hướng tương lai mình vào chân trời nhạc lãng mạn. Nói tới nhạc Beethoven, ta không thể không bỏ qua hai bài độc tấu dương cầm “Sáng Trăng” (piano sonata “Moonlight”) và bài độc tấu dương cầm “Waldstein” mà ông thực hiện trong khoảng 1801 và 1802.

Beethoven ban đầu yêu một cô gái tên là elisa, anh dành hết tâm huyết để cho ra đời tác phẩm bất hủ “for elise”. sách nói rằng anh ta có dáng người nhỏ nhắn, đầu tóc bù xù, trông như một nghệ sĩ lãng tử, bất cần với cuộc sống, và bi kịch nhất là anh ta có vết sẹo trên mặt. Năm 1795, ông yêu một ca sĩ opera trẻ, xinh đẹp và quyến rũ, Magdalene Willmann ở Vienna, và cầu hôn cô, nhưng bà kiên quyết từ chối, vì nghĩ rằng ông là một người đàn ông xấu tính và nóng nảy. . Kể từ đó, Beethoven hầu như chỉ là một kẻ thất bại và một người tình cô đơn. và chính vì không có vợ con nên anh ấy dành toàn bộ thời gian để phát triển tài năng âm nhạc của mình.

Sau đây, người viết xin mở ngoặc để bàn sơ lược về ba thời kỳ chính của âm nhạc cổ điển phương Tây từ năm 1600 đến năm 1910:

* thời kỳ baroque – chịu ảnh hưởng của nền văn minh kiến ​​trúc và nghệ thuật: 1600 đến 1750, tiêu biểu trong số 38 nhạc sĩ tiêu biểu trong nhóm này là nhạc sĩ người Đức johann sebastian bach, 1685 – 1750.

* thời kỳ âm nhạc cổ điển (1750-1820), thời kỳ âm nhạc tập trung vào nhạc cụ, tức là nghe âm thanh của đàn hạc, hơn là tập trung vào cảm xúc bên trong. Các nhạc sĩ tiêu biểu của thời kỳ này là: Franz Joseph Haydn, 1732 – 1809, người Áo, Wolfgang Amadeus Mozart, 1756 – 1791, người Áo, Ludwig van Beethoven, 1770 – 1827, người Đức.

Xem thêm: Đặc điểm nghệ thuật nổi bật trong truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao là gì?

* Giai đoạn lãng mạn: (1820-1910), giai đoạn âm nhạc được viết bằng cách tập trung vào cảm xúc cá nhân, bày tỏ ước muốn của bản thân, hoặc bày tỏ tình cảm yêu nước, yêu nước hoặc yêu nước. Đại diện cho nhóm này là các nhạc sĩ: Frédéric Chopin, 1810 – 1849, người Ba Lan, Felix Mendelssohn, 1809 – 1847, người Đức, Franz Schubert, 1797 – 1828, người Áo, Johannes Brahms, 1833 – 1897, người Đức, và Piotz Ilyitch Tchaikovsky, 1840 – 1893 , Tiếng Nga. nhiều nhà sử học âm nhạc ghi nhận công chúa là thủ lĩnh của nhóm nhạc lãng mạn này.

Xem Thêm : Tác phẩm văn học như một con quay kì lạ… | Trường THPT Vĩnh Viễn TPHCM

Beethoven được cho là đã ở trong giai đoạn chuyển tiếp từ âm nhạc cổ điển sang sự khám phá dẫn đến trường phái âm nhạc lãng mạn. Quay trở lại thế kỷ XVIII, trường phái lãng mạn là điểm thu hút muốn phá vỡ những luật lệ hà khắc của chính quyền hay những luật lệ độc tài mà vua chúa áp đặt lên người dân. hai lĩnh vực văn học và hội họa là những người đi tiên phong trong việc giải phóng xiềng xích đến một chân trời mới, mở ra cánh cửa lãng mạn để thỏa mãn những nhu cầu tâm trí, những ước mơ thoát khỏi xiềng xích của xã hội khắt khe đương thời. Kể từ đó, các nhạc sĩ trong lĩnh vực âm nhạc không bỏ lỡ cơ hội, họ chạy theo những suy nghĩ mới, âm thanh mang đến một làn gió mới cho âm nhạc. với Beethoven, anh nghe cuộc cách mạng pháp khi nhân dân đứng lên đấu tranh dân chủ, nhân dân phải làm chủ quê cha đất tổ, Beethoven đã bị mê hoặc bởi cao trào nổi dậy của châu âu lúc bấy giờ. Nếu shakespeare tài năng về văn chương khi viết những tác phẩm lãng mạn điển hình, thì Beethoven cũng không kém cạnh khi tạo ra những tác phẩm xuất sắc dành cho dàn nhạc, chẳng hạn như bản giao hưởng thứ 5 được coi là tương đương với tác phẩm ấp ủ của nhà văn shakespeare, cũng là đồng tác giả của các kiệt tác “giấc mơ đêm giữa mùa hè” và “romeo và juliette”. Beethoven đã sáng tác những bản hòa tấu tuyệt vời cho bi kịch và hài kịch. ông đã hoàn thành bản giao hưởng thứ năm trong khoảng thời gian từ 1803 đến 1809 và bản giao hưởng thứ sáu trong khoảng một năm (1807-1808). những tác phẩm này đã làm tăng danh tiếng và tài năng của anh ấy.

* bước ngoặt lớn trong cuộc đời của Beethoven:

Từ năm 1798 đến năm 1801, ông nhận thấy rằng tai của mình không còn nghe được nữa, ông được một bác sĩ chẩn đoán rằng ông bị điếc. Còn gì đau đớn hơn khi một nhạc sĩ không còn có thể sử dụng đôi tai của mình để nghe và sáng tác nhạc? anh trở nên đau khổ, tuyệt vọng muốn tự vẫn và sau đó quyết định sống ẩn dật, tránh xa chốn đông người. trong di chúc về cái chết bi thảm của mình khi ông gửi cho các anh trai của mình, có tựa đề “heiligenstadt di chúc”. bày tỏ sự tuyệt vọng và không quan tâm đến cuộc sống. Chính minh chứng đó là sự giải tỏa nỗi đau nội tâm để anh thay đổi hướng đi trong âm nhạc, để anh tìm ra hướng đi khác cho cuộc đời mình. Trong giai đoạn chuyển tiếp này, khi âm nhạc chuyển từ sự biến dạng cổ điển sang chủ nghĩa lãng mạn, Beethoven đã tích cực đóng góp vào phong trào mới, tập trung khả năng của mình để cảm thấy rằng ông đang viết những tác phẩm mới tuyệt vời như “Moonlight” hay “Waldstein”. giai đoạn anh động lòng, tuy không nghe được nhưng tưởng tượng và ghi chép lại. trong 3 năm 1801-1803 ông đã cho ra đời 3 bản giao hưởng đầu tiên. Với sự ra đời của Bản giao hưởng thứ năm, nhạc sĩ Ernst Hoffmann đã biểu diễn ở Berlin vào năm 1910, đem lại thành công lớn cho ông và nâng cao danh tiếng của Beethoven. Đến năm 1914, hầu như toàn bộ châu Âu, các chính khách quyền lực và khách mời âm nhạc đều biết đến tên ông và thậm chí còn yêu thích âm nhạc của ông hơn nữa. năm 1812 ông phát hành bản giao hưởng thứ bảy, và bản thứ tám được phát hành ngay sau đó. Trong thời kỳ mà Beethoven có nhiều sáng tác này, ba tác phẩm khác đã ra đời, Egmont (1810), Die Ruinen von Athen (1811), và Konig Stephan (1811). Các nền âm nhạc của Đức, Áo và các nước châu Âu khác đã đón nhận các tác phẩm của anh một cách nồng nhiệt.

hai bản hòa tấu chính nổi tiếng cuối cùng của ông là missa long trọng, được thực hiện để kỷ niệm lễ khánh thành của Archduke rudolf fr Archduke rudolf ở giáo phận olmutz, và bản giao hưởng thứ chín được gọi là bản giao hưởng hợp xướng). thành công và thành công hơn và hơn nữa. Đường danh vọng của anh ta càng leo cao, sức khỏe của anh ta càng giảm sút nghiêm trọng. Ngoài việc mất thính giác, ông còn bị viêm phổi và viêm gan. mất ngày 26 tháng 3 năm 1827 ở tuổi 57.

nếu nhạc sĩ mozart nghiễm nhiên trở thành thần đồng xuất sắc khi mới 5 tuổi rưỡi. Mozart đã thành công trong việc kiếm tiền để giúp đỡ cha mẹ khi còn rất nhỏ. Nhưng khi qua đời, Mozart là một nghệ sĩ rất nghèo. tang lễ của ông rất khiêm tốn, ông được chôn cất trong nghĩa trang của người nghèo. Ngược lại, tài năng của Beethoven phát triển chậm hơn khi còn nhỏ, khiến cha ông thất vọng nhiều. cuộc đời anh chịu nhiều vất vả về gia đình, tình cảm, rồi bệnh tật lại hành hạ anh. nhưng đến cuối đời, đám tang của ông được tổ chức rất long trọng và trang nghiêm. Gần 20.000 khách đã theo dõi lễ tiễn biệt của ông và người đồng nghiệp của ông, nhạc sĩ Franz Schubert, đã đứng lên để tiễn đưa một thiên tài âm nhạc.

Xem thêm: Tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà văn Nguyễn Dữ – Tìm đáp

Điều mà nhiều nhà xã hội học nói về Beethoven là ông yêu mẹ, cha và hai anh trai của mình, mặc dù ông có bất hòa với cha khi còn nhỏ khi cha ông đòi hỏi ở ông một khả năng siêu việt và phi thường mà ông không có được. ông được các nhà lịch sử âm nhạc coi là một người học nhanh và phát triển tài năng, vì trong độ tuổi từ 12 đến 17, ông đã bị cắt giảm một nửa trong bước tiến nhảy vọt của mình. Đặc biệt lưu ý, Beethoven là một nhạc sĩ nổi tiếng trong cả hai nhóm nhạc cổ điển và lãng mạn. tên tuổi của ông nổi lên ngay vào giai đoạn cuối của kỷ nguyên âm nhạc cổ điển và trên thực tế, ông cũng là người tiên phong góp phần tạo nên sự phôi thai cho kỷ nguyên âm nhạc lãng mạn đang phát triển sau này.

tham khảo: 1) cuốn sách “các nhà soạn nhạc vĩ đại”, một bộ sưu tập các bài báo. 2) tư liệu vrma lịch sử âm nhạc, dr. Hgrant Aghajanyan, Ashot Hayrapetyan và Nguyễn Tường Vân.

nguồn: http://chimviet.free.fr/truyenky/viethai/vhal055.htm

một số tác phẩm kinh điển:

Xem Thêm : Raphael – Tiểu Sử Cuộc Đời, Sự Nghiệp & Tác Phẩm – Kiệt Tác Nghệ Thuật

giao hưởng.

  • Giao hưởng số 1 ở cung C (sáng tác 1799-1800, biểu diễn 1800)
  • Giao hưởng số 2 ở cung D (sáng tác 1801-1802, biểu diễn 1803)
  • Giao hưởng số 3 trong cung E phẳng (eroica, “sử thi”; sáng tác từ năm 1802 đến 1804, biểu diễn năm 1805)
  • Giao hưởng số 1807)
  • Giao hưởng số 5 trong G nhỏ (“định mệnh”, sáng tác từ 1804 đến 1808, biểu diễn năm 1808)
  • Giao hưởng số 6 ở F thứ (mục vụ, “đất nước”); sáng tác từ năm 1803 đến 1807, biểu diễn năm 1808)
  • Giao hưởng số 7 ở cung F (sáng tác 1811-1812, biểu diễn 1813)
  • Giao hưởng số 8 ở cung F (sáng tác 1811) -1812, biểu diễn 1814)
  • Giao hưởng số 9 ở giọng thứ (chorale, “thánh ca”; sáng tác 1817-1824, biểu diễn 1824)

buổi hòa nhạc

  • piano concerto 1 in C major (1796-1797)
  • piano concerto 2 in C major (1798)
  • piano concerto 3 in C major (1803)
  • bản concerto cho ba vĩ cầm và piano ở cung C (1805)
  • hoà tấu piano số 4 ở cung chính (1807)
  • li>

  • hoà tấu dành cho vĩ cầm ở cung D major (1806)
  • piano concerto 5 in E phẳng major (hoàng đế, “hoàng đế”; 1809)

Xem thêm: Sơ đồ tư duy bài Việt Bắc đầy đủ nhất ✔️

dành cho độc tấu và dàn nhạc

  • Lãng mạn cho Violin và Dàn nhạc số 1 trong F Major (1802)
  • Lãng mạn cho Violin và Dàn nhạc số 2 trong F Major (1798)
  • “acoustic bohemia ”(nghệ sĩ piano, dàn hợp xướng và dàn nhạc C thứ nhỏ; 1808
  • các sinh vật của prometheus ouverture và dance opera (1801)
  • ouverture coriolan (1807)
  • sáng tác lần vượt qua đối với opera fidelio của Beethoven:
  • opus 72: ouverture fidelio (1814)
  • opus 72a: ouverture leonore “number 2” (1805)
  • opus 72b : ouverture leonore “number 3” (1806)
  • opus 138: ouverture leonore “number 1” (1807)
  • egmont ouverture và soundtrack của nhạc nền 1810 (1811)
  • konig stephan (vua ghẻ), ouverture và nhạc nền (1811)
  • ouverture zur namensfeier (party, “festival”) (1815)
  • ouverture die weihe des hauses à ”; 1822)

bộ tứ chuỗi

  • ba bộ tứ chuỗi ́ (“rasumovsky”; 1806)
  • bộ tứ chuỗi số 7 trong bộ tứ F chính
  • bộ tứ với bộ tứ chuỗi số E thứ
  • bộ tứ chuỗi số 9 trong C trưởng
  • tứ tấu chuỗi số 10 trong E phẳng chính (“đàn hạc”) (1809)
  • tứ tấu chuỗi số 11 trong F thứ (nghiêm trọng , “low”; 1810)
  • chuỗi số tứ 12 trong chuỗi E chính (1825)
  • chuỗi tứ quý 13 trong C major (1825)
  • chuỗi bộ tứ không. 14 C nhỏ (1826)
  • tứ tấu chuỗi số 15 trong nhỏ (1825)
  • grobe fugecung B flat major – bắt đầu bằng chương cuối của opus 130 (1824-1825)
  • biên dịch của große fuge, opus 133, dành cho song tấu piano (bốn tay); 1826)
  • chuỗi tứ quý số 16 trong F major (1826)

nhóm ngũ phân chuỗi

  • ngũ tấu chuỗi trong C major (1801)
  • ngũ tấu chuỗi trong C major
  • fugue cho ngũ tấu chuỗi trong D major

gấp ba

  • ba bộ ba piano (1795)
  • bộ ba piano 1 in E âm trưởng
  • tam tấu piano trong 2 âm trưởng
  • 3 piano thứ C bộ ba
  • bộ ba piano số 4 C (“gassenhauer”; 1797; phiên bản dành cho violin)
  • hai bộ ba piano số 2 (1808)
  • bộ ba piano số 5 trưởng hơn chính (“ma”)
  • bộ ba piano trong 6 cung chính
  • bộ ba piano ba trong 7 cung chính (“Prince”; 1811)

bộ ba chuỗi

  • bộ ba chuỗi 1 trong E chính phẳng (1794)
  • bộ ba ba chuỗi (1798)
  • bộ ba chuỗi 2 trong G major
  • bộ ba chuỗi ở âm thứ 3
  • bộ ba chuỗi ở âm thứ 4

nhạc phòng với sáo

  • tam tấu piano ở cung bậc thứ 4 B (“gassenhauer”; 1797)
  • ngũ tấu piano và sáo trong cung bậc E (1796)
  • hình vuông dành cho kèn trumpet, thợ săn trumpet, violin, fiddle, bass fiddle, harp và dai ho cam cung trong E dẹt trưởng (1799)
  • hình vuông, kèn thợ săn và kèn trong E phẳng trưởng (1796)
  • âm bổng cho hai oboe và trumpet trong C major (1795)
  • cho trumpet, oboe, harp, chaser và trumpet trong E flat major (1792)
  • violin sonata
  • ba bản sonata vĩ cầm (1798)
  • bản sonata vĩ cầm số 1 bản D Major
  • bản sonata vĩ cầm số 2 bản A major
  • Tiếng vĩ cầm Sonata số 3 ở cung E thăng bằng
  • Violin Sonata số 4 ở cung thứ (1801)
  • Violin Sonata số 5 ở cung F (“spring”; 1801)
  • ba bản sonata dành cho violin (1803)
  • bản sonata dành cho violin 6 trong bản A major
  • bản sonata dành cho violin 7 ở bản C thứ
  • bản sonata dành cho violin 8 ở G ma yor
  • sonata vĩ cầm trong 9 A major (“kreutzer”; 1803)
  • Violin sonata 10 in G major (1812)
  • Violet sonata
  • Hai sonata cho đàn hạc (1796)
  • sonata for đàn hạc số 1 ở giọng F trưởng
  • bản sonata dành cho đàn hạc số 2 ở âm trưởng
  • bản sonata dành cho đàn hạc số 3 ở âm trưởng (1808)
  • hai sonaas cho Harpsichord (1815)
  • hát sonata ở 4 C chính
  • sonata ở 5 D chính

Nguồn: https://truongxaydunghcm.edu.vn
Danh mục: Văn Học

Related Articles

Back to top button