Thiền sư Tuệ Tĩnh: ông Tổ nghề thuốc Nam

Tác phẩm của tuệ tĩnh

Mồ côi mẹ từ năm 6 tuổi, được các sư ở chùa Hải Triều giao cho chùa nước nuôi nấng, dạy dỗ. Năm Tân Mão 1351, đời thứ 10, đời vua Trần Đức Tông, lúc đó mới 22 tuổi, trí thức tinh thi đỗ Tiến sĩ thứ hai, tức là Hoàng giáp. , nhưng không ông không làm quan mà đi tu ở chùa và mạnh> lấy pháp hiệu là tĩnh tuệ . Trong thời gian đi tu, ông chuyên tâm nghiên cứu về y học cổ truyền và làm thuốc chữa bệnh cứu người. Với tư chất thông minh ngay từ nhỏ và ham học hỏi, Trí Tuệ đã chú trọng tìm hiểu về nghề thuốc như: cách trồng cây thuốc, tích lũy kinh nghiệm chữa bệnh dân gian, đào tạo nghề chữa bệnh cho các nhà sư. Năm 1385, IP 55 tuổi, với kiến ​​thức uyên bác về y thuật và y thuật, lúc bấy giờ ông đã là một danh y, được cử đi chữa bệnh cho vua và hoàng hậu của triều đại ming.

chân dung về trí tuệ của bậc thầy thiền môn.

xa quê hương của mình, nhưng vẫn tham gia vào nghiên cứu y học và y học. Ông được vua Minh phong tặng danh hiệu Đại y thiền sư sau khi cứu sống Hoàng hậu nhà Minh lúc bấy giờ khỏi một căn bệnh hậu sản mà các danh y của nhà Minh và người Nhật đều không thể ngăn cản. Từ ngày bắc tiến, anh không bao giờ trở lại quê hương nữa. sống ở nước ngoài, hậu thế chỉ biết ông mất ở Giang Nam, Trung Quốc, nhưng không rõ năm.

giới trí thức một thời ở miền Bắc vẫn nhớ và muốn trở về quê hương. đó là lý do tại sao trên bia mộ của anh ấy có dòng chữ “ai đi về phía nam, hãy để tôi về nhà”.

Xem thêm: Đồng Chí – Tác giả: Chính Hữu

các tác phẩm thông kinh lạc còn lại là: cuốn “Hồng nghi thiên hạ y thư”, gồm 2 cuốn về 13 bài thuốc và 37 bài trị bệnh sốt thương hàn. Bộ sách “Thần dược thần y” gồm 11 cuốn về dược tính của 580 vị thuốc nam, 10 bộ phận và 3.873 bài thuốc chữa 184 loại bệnh. Hai bộ sách quý trên do Nhà xuất bản Y học (Hà Nội) in bằng tiếng Việt năm 1960, do Phòng Đào tạo Viện Đông y dịch theo chủ trương của Bộ Y tế. Cho đến nay, cuốn sách 600 trang “Trí Tuệ Tĩnh Hoàn” đã được tái bản nhiều lần để phục vụ cho công tác giảng dạy, nghiên cứu và thực hành thuốc nam trong nước. Được cho là người sáng lập (còn gọi là ông tổ của nghề y học cổ truyền), sau này Hải Thượng Lãn Ông là người truyền bá rất hiệu quả nghề thuốc dân tộc này.

theo giáo sư vu ngọc khánh: “Thơ văn trên thế giới rất hiếm, vì vậy quả thật những tác phẩm trí tuệ có vị trí không chỉ trong lịch sử y học mà còn trong lịch sử văn học khoa học”. (báo thị xã, ngày 5 tháng 3 năm 2004)

Xem Thêm : Phân tích truyện ngắn Hai đứa trẻ (Thạch Lam) – Trường THPT Thành Phố Sóc Trăng

Hơn 200 năm sau, Dr. Nguyễn Danh Nho cùng quê với Tuệ Tĩnh. khi đi sứ ở Trung Quốc, ông đã đến thăm lăng mộ của Tuệ Tinh ở Giang Nam. đọc mặt sau tấm bia trên mộ có ghi “sau này có người ở nước về, nhớ mang hài cốt ta về”, cụ Nguyễn danh nho vô cùng xúc động trước tình yêu quê hương đất nước của người tri kỉ. vị bác sĩ thuê thợ làm lại tấm bia, sáng tác và khắc những lời chúc của vị bác sĩ tài hoa bạc mệnh, đưa ông trở về quê hương.

Vào thời điểm đó, toàn bộ vùng quê của ông, thôn nghia phủ và xã Cẩm vu đã bị ngập lụt. khi thuyền đến gần chỗ, thuyền bị lật, tỉnh lại rơi xuống nước và không thể nhấc lên được. tưởng chừng công sức của họ đã bỏ xuống sông, nhưng không lâu sau khi nước sông cạn kiệt, người ta lại tìm thấy bia. Thấy thế đất ở đây có hình dạng giống như con dao cầu (con dao của y học cổ truyền) nên người dân đã lập miếu thờ làm bia. ngôi đền đơn sơ được xây dựng để thờ bia đá chỉ cách quê hương của trí tuệ hơn 1 km.

Theo dân gian: Từ ngày tấm bia được dựng lên, người dân khắp nơi đổ về xin thuốc, hái lá và xin nước ở đền thờ để chữa bệnh. Mỗi ngày có hàng nghìn lượt người đến chùa xin thuốc. Năm 1846, vua Thiệu Trị ra chiếu chỉ cấm cúng bái mê tín dị đoan và xin thuốc. nhà vua sai quân lính đem tấm bia cất vào kho. Năm 1936, một người dân làng Văn Thái làm nghề bán hàng đã lấy được tấm bia bí mật mang về chùa. Từ đó, người dân khắp nơi đổ về chùa xin thuốc. Một khi lời đồn đến tai vua, vua sai quân lính chặt hết những chữ khắc trên bia để không ai đọc được nữa.

Theo các già làng kể lại: Để cất giấu tấm bia này, người dân làng Văn thai đã đắp lên vách chùa Văn thai rồi dựng lại. nhờ vậy mà tấm bia tồn tại cho đến ngày nay. Người dân nơi đây tin rằng đó là mỏm đất hình cầu (dao làm thuốc) do thiên nhiên tạo nên, là vùng đất sơ khai và cũng là nơi mà đại danh y, thiền sư thinh tinh muốn đặt tấm bia khắc ghi ý chí của mình.

Từ bao đời nay, giới y học và nhân dân Việt Nam đều nhận thấy sở hữu trí tuệ có công lớn trong việc xây dựng quan điểm y tế độc lập, tự chủ, sát với thực tiễn Việt Nam. Câu nói của ông: “Thuốc Việt chữa bệnh cho người Việt” thể hiện nhận thức sâu sắc về mối quan hệ giữa con người và môi trường sống, đồng thời cũng thể hiện ý thức độc lập, tự chủ. ngay cả việc nghiên cứu các loại dược liệu, ông cũng không phụ sự sắp xếp của sách ngoại văn. chẳng hạn, ông không đặt kim, mộc, thủy, hỏa, thổ mà bố trí cây cỏ trước. ông cũng phê phán những suy nghĩ mê tín của những người chỉ tin vào bùa phép mà không tin vào y học. chỉ ra nhiều phương pháp chữa bệnh khác nhau như: châm, chọc, chườm, bóp, xoa, ăn, uống, xông hơi, xông hơi … phương pháp vệ sinh, cơ sở chữa bệnh tổ chức tại các chùa, làng. Theo tài liệu, trong 30 năm hoạt động trên lĩnh vực này, sở hữu trí tuệ đã xây dựng 24 ngôi chùa, biến những ngôi chùa này thành những phòng khám chữa bệnh. thu thập nhiều ca bệnh: chữa được 182 bệnh với 3.873 bài thuốc. cũng luôn nhắc nhở mọi người chú ý đến nguyên nhân gây bệnh, tìm biện pháp phòng tránh tích cực. trí tuệ tĩnh tại nhấn mạnh tác dụng của việc rèn luyện thân thể và sống điều độ. nêu ra phương pháp dưỡng sinh, tóm gọn trong 14 chữ: rửa tội, dưỡng khí và tinh thần. thanh tam, quả dục, của chân và luyện chân. sở hữu trí tuệ còn có các bài thuốc chữa bệnh cho gia súc. có thể nói nó đã góp phần đặt nền móng cho ngành thú y cả nước. Trong nhiều thế kỷ, SHTT được tôn là vị thánh của y học Việt Nam, ông tổ của y học cổ truyền.

Xem thêm: Tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục – Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành – Văn 12

Toàn cảnh ngôi bia thờ trí tuệ thiền sư tại cẩm giang, hải dương.

ở Hải Dương có ngôi chùa dựng bia thờ thiền sư Tuệ tinh ở xã Cẩm văn, Cẩm vu, chùa Hải phái ở thôn Yên Trung, nay là chùa giam, xã Cẩm Sơn, huyện Camgiang. các câu đối thờ ông trong chùa bia được chép và dịch như sau: mở mang phương tiện thông đạt, phước đức cao rộng như ân phật sống, ân cứu người rộng như hoa trà. . Ngôi chùa này được xây dựng từ thời nhà Lê, được trùng tu vào năm 1936, năm 2007. Ngôi chùa dựng bia gồm ba tòa; tiền tế, hậu cung và hậu cung theo kiểu kiến ​​trúc tiên thiên hậu môn. trong hậu cung, trong điện thờ tượng trí thức, là tượng đồng ngồi trên ngai nhỏ, đầu đội mâm, mắt sáng, râu dài, hai tay chắp trước ngực, mặc áo thêu. với một con rồng. Theo sử sách của chùa, pho tượng này được người dân làng Vạn Thái làm thủ công để thờ cúng từ những ngày đầu mới xây dựng chùa. Thông thường trong các chùa đều có tượng các vị trụ trì đã đắc đạo, tư thế của tượng được tạc ngồi xếp bằng hoa sen, hai tay đan chéo vào lòng theo kiểu ấn tam muội (thiền ấn), hoặc chắp hai tay. đặt trên lòng bàn tay trên đầu gối. nhưng tượng Đại thiền sư ngự y thinh trần được tạc trong tư thế ngồi trên ghế, lưng thẳng, hai tay bắt chéo trước ngực theo kiểu cundhe. điều đó chứng tỏ người xưa đặt vị trí của thiền sư là một vị hóa thân của bồ tát theo tiêu chuẩn của bồ tát.

Xem Thêm : Các Thể Loại Văn Học – Kiến Thức Cơ Bản Lớp 12

Tượng đồng thiền sư trí tuệ tĩnh tại trong chùa bia .

Ngoài ra, ông còn được thờ làm thần ở xã yên lu, huyện thủy nguyên, ngoại thành thành phố hải phòng (sắc phong là thượng phúc thần năm 1572, theo Nguyên binh thần phả, đại học đồng biên soạn a bác sĩ từ viện cơ mật hoàng gia).

Xem thêm: Cảm nghĩ về bài thơ qua đèo ngang 2023

thịnh vượng

nguồn truy vấn:

– tờ báo nổi tiếng

– caythuocquy.info.vn

– báo dân trí

– thang chăm sóc y tế. xã luận danang-2005

Nguồn: https://truongxaydunghcm.edu.vn
Danh mục: Văn Học

Related Articles

Back to top button