Phân tích bài Sông núi nước nam (12 mẫu) – Văn 7

Phân tích tác phẩm sông núi nước nam

nam quốc sơn hà được coi là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam. vì vậy download.vn sẽ cung cấp bài văn mẫu lớp 7: phân tích bài thơ sông núi nước Nam .

Hi vọng với dàn ý và 12 bài văn mẫu lớp 7, các em học sinh sẽ có thêm nhiều ý tưởng để hoàn thiện bài văn của mình. xem chi tiết bên dưới.

lược đồ phân tích sông núi phía Nam

i. mở đầu

<3

ii. nội dung bài đăng

1. khẳng định chủ quyền lãnh thổ của quốc gia, dân tộc

– câu 1: nam quốc sơn hà nam đế cư (vua phương nam sống ở sông núi nước sông)

  • trong quan niệm của xã hội cổ đại: tất cả lãnh thổ, của cải vật chất và dân chúng của một nước đều thuộc về nhà vua. người có quyền quyết định mọi thứ, kể cả quyền sống và quyền giết người.
  • “Nam đế”: hoàng đế của đất nước phía Nam, người đứng đầu một quốc gia – đại diện cho người bình đẳng với phía Bắc. .

<3

  • “thiên sách”: sách trời – lãnh thổ và lãnh thổ của đất nước được ghi vào sổ trời.
  • điều này khẳng định chủ quyền lãnh thổ của quốc gia ta với tư cách là sự thật là không thể chối cãi và đang thay đổi.

= & gt; một lời khẳng định mạnh mẽ, lòng dũng cảm.

2. quyết tâm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của quốc gia, dân tộc

– câu 3: làm thế nào để xâm phạm (tại sao kẻ thù tiếp tục xâm phạm ở đây?)

  • câu hỏi tu từ: “how have” – ​​”why?” nhằm khẳng định lại chủ quyền quốc gia.
  • “pê đê”: khẳng định những kẻ xâm lược xâm phạm lãnh thổ là trái ý Chúa.

<3

= & gt; khẳng định lại một lần nữa quyết tâm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của chúng ta.

iii. kết thúc

đánh giá giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ.

Phân tích bài sông núi nước Nam – văn mẫu 1

Chủ nghĩa yêu nước là nguồn cảm xúc dồi dào xuyên suốt dòng chảy ngàn năm văn học Việt Nam. ở mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau, nội dung yêu nước được thể hiện trên những phương diện riêng. Người ta cho rằng bài thơ “Sông núi nước Nam” thường được sáng tác như một kiệt tác trong cuộc kháng chiến chống khủng bố, được coi là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam. bài thơ là tiếng nói khẳng định độc lập, chủ quyền và ý chí quyết tâm bảo vệ chủ quyền trước mọi kẻ xâm lược.

nói về hoàn cảnh ra đời của bài thơ, có nhiều câu chuyện khác nhau, trong đó có sự tích kể rằng năm 1077 quân sang xâm lược nước ta, Lý Thường Kiết dẫn quân đánh giặc ở dòng sông như trăng, một đêm bỗng nghe trong. đền thờ thần sông như trăng, có giọng ngâm bài thơ này. sự ra đời của bài thơ gắn với tín ngưỡng tâm linh khiến bài thơ không chỉ hào hùng mà còn thiêng liêng.

Hai câu thơ đầu, tác giả đã khẳng định chân lý độc lập, chủ quyền:

“Nam quốc sơn hà nam đế đích thien thủ”

trong quan niệm đương thời, “dé” là đại diện cho dân cho nước, nên nghĩa thơ nên hiểu theo nghĩa rộng là sông núi nước Nam là nơi sinh sống của người miền nam. Sự thật này tưởng chừng là một điều gì đó đơn giản, hiển nhiên nhưng nó đã được đánh đổi bằng mồ hôi, máu, nước mắt và sự hy sinh của cha ông ta. Chính vì vậy Nam quốc là vùng đất linh thiêng, anh hùng không ai có thể xâm phạm được. câu thơ đầu là lời tuyên bố hùng hồn và hùng hồn về chủ quyền, lãnh thổ của dân tộc. tác giả tự xưng dân tộc mình là “nam quốc”, gọi vua nước ta là “hoàng đế”, đó là cách thể hiện lòng tự tôn, tự tôn dân tộc. Xưa nay các nước phương bắc thường coi thường, coi thường nước ta, coi Đại Việt là nước chư hầu thuộc địa, không phải là nước độc lập, vua ta chỉ là vương hầu hàng năm phải cống nạp. Chỉ cần gọi vậy thôi, tác giả đã đặt nước phương nam ngang hàng với các nước, khẳng định nước ta là nước độc lập, có lãnh thổ, chủ quyền riêng không lệ thuộc vào bất cứ thế lực nào, vị vua nào cũng là người anh minh, tài giỏi. . các vị hoàng đế, không thua kém các vị vua của bất kỳ quốc gia nào khác. câu thơ không chỉ vang lên niềm tự hào, tự tôn của dân tộc mà còn là lời cảnh báo đối với bọn đế quốc phương Bắc hống hách, lộng hành.

Chân lý độc lập, chủ quyền của dân tộc không chỉ được chứng minh bằng những lý lẽ thực tiễn, mà còn được khẳng định bằng “sách trời”. hai chữ “tất nhiên” được nói ra một cách chắc chắn, mạnh mẽ và chắc chắn, nhưng không ai có thể tỏ ý phản đối. Những con sông và những ngọn núi ở phía nam đã được ghi trong sách thiên đàng, với lời chứng của thần linh, là thiêng liêng và bất khả xâm phạm. kẻ nào dám chống lại ý kiến ​​đặt gót bẩn ở biên giới phía Nam cũng là trái ý trời, kẻ đó sẽ bị trừng trị đích đáng. câu thơ mang màu sắc thần thánh càng làm cho sự thật về độc lập, chủ quyền thêm thiêng liêng và giá trị.

Sau lời khẳng định hùng hồn về độc lập, chủ quyền dân tộc, tác giả đã đưa ra lời cảnh cáo nghiêm khắc đối với kẻ thù:

“Giống như một cuộc xâm lược lai giữa các lỗ nguy hiểm? kẻ xấu đã bị đánh bại ”

Câu hỏi vang lên vang dội, chắc nịch và chắc chắn về phía quân xâm lược. coi chúng là “mâu thuẫn” nghĩa là tác giả đã phân định rạch ròi tính chất chính nghĩa và phi nghĩa của cuộc chiến. nếu chúng ta đấu tranh cho công lý, chúng ta sẽ gặt hái được những thành quả chiến thắng, và những kẻ thù độc ác và bất công đó sẽ phải nhận những hậu quả xứng đáng. Câu thơ thể hiện rõ thái độ tức giận, bất bình của tác giả đối với kẻ thù ngang nhiên đi ngược lại chân lý, vi phạm thánh ý Chúa. càng tức giận, ý chí càng cao, câu thơ cuối như một đòn giáng mạnh mẽ có sức cảnh báo to lớn đối với kẻ thù không đội trời chung: “hiền nhân khanh, vệ quốc bại vong”

ở đây, tác giả đã trực tiếp gọi đối phương là “bạn” với thái độ khinh bỉ, khinh bỉ. câu thơ thể hiện ý chí quyết chiến, đánh thắng quân xâm lược và niềm tin sắt đá vào sự thất bại tất yếu của kẻ thù. Với thể thơ bảy chữ ngắn gọn, súc tích, giọng điệu hùng hồn, mạnh mẽ, bài thơ được đặt trong bối cảnh của cuộc kháng chiến, có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc cổ vũ, động viên, khích lệ tinh thần chiến đấu của bộ đội, như cũng như một lời cảnh báo nghiêm khắc đối với kẻ thù xâm lược.

“Sông núi nước Nam” là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam với cảm hứng yêu nước mãnh liệt. Cảm hứng yêu nước với những tuyên ngôn độc lập, chủ quyền có sức cổ vũ quân dân, răn giặc, sau này được nhân rộng và phát triển thành hai bản tuyên ngôn lớn của dân tộc, đó là Bình Ngô đại cáo và Bình Ngô đại cáo. p>

phân tích bài sông núi nước Nam – văn mẫu 2

Chủ quyền quốc gia luôn là chủ đề nóng, không chỉ hôm nay mà ngay cả những ngày gần đây. “Sông núi nước Nam” có thể coi là bản tuyên ngôn độc lập, chủ quyền đầu tiên của dân tộc ta. bài thơ thể hiện ý chí kiên cường, quyết tâm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của tổ tiên.

Có nhiều sự tích khác nhau về xuất xứ của bài hát “sông núi nước Nam” nhưng đều có một điểm chung là bài thơ ra đời gắn liền với cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm của dân tộc. vì có nhiều giả thuyết khác nhau về xuất xứ tác phẩm nên bài thơ thường bị giấu tên. “núi sông nước Nam” có thể coi là bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc, với hai nội dung chính: khẳng định nền độc lập dân tộc và quyết tâm bảo vệ nền độc lập đó.

Hai câu đầu khẳng định độc lập dân tộc trên cơ sở lãnh thổ và chủ quyền:

“Nam quốc sơn hà nam đế đích thien thủ”

trước hết, về chủ quyền, Đại Việt là một quốc gia có chủ quyền của riêng mình, điều này được thể hiện rất rõ qua cụm từ “nam de do”. trong bản dịch, bài thơ dịch là “Nam vương ở”. ở đây chúng ta phải phân biệt rõ ràng giữa hoàng đế và vua, vì đây là hai khái niệm rất khác nhau. “hoàng đế” là đấng duy nhất, toàn năng, có quyền lực cao nhất; có nhiều “vua”, tùy thuộc vào hoàng đế, quyền lực đứng sau hoàng đế. do đó chữ làm khi dùng trong bài khẳng định mạnh mẽ quyền vua đối với đất nước phương nam, còn khi dùng chữ “nam đế” thì bình đẳng với “đế vương phương bắc”, độc lập tự chủ đất nước. hoàng đế của phương bắc.

Về lãnh thổ, nước ta có phạm vi riêng đã được ghi rõ trong sách trời. căn cứ theo sách nước ta thì nằm ở phía nam ngũ hành thuộc địa chi của sao cánh và sao chẩn. việc dựa vào sách trời để khẳng định chủ quyền đất nước rất phù hợp với tâm lý, tín ngưỡng của người dân xưa (niềm tin vào vận mệnh và số mệnh) nên có sức thuyết phục mạnh mẽ hơn. đồng thời sách trời ở đây cũng tương ứng với sự thật khách quan, qua đó tác giả ngầm khẳng định nền độc lập của nước ta là sự thật khách quan, không phải ý muốn chủ quan.

hai câu tiếp theo khẳng định quyết tâm bảo vệ độc lập dân tộc của nhân dân ta. trong hai câu thơ này, tác giả sử dụng từ ngữ với hàm ý xúc phạm “ngang ngược”: giặc làm phản, gọi giặc là giặc. Ngoài việc vạch trần bản chất phi nghĩa của chiến tranh, tác giả còn đặt ra một câu hỏi “como ha” (tại sao). vì những gì họ làm là không công bằng, trái với sự thật khách quan nên tất yếu sẽ chuốc lấy thất bại. Câu thơ cuối vừa là lời khẳng định, vừa là lời cảnh báo, cảnh báo trước sự xâm lược của chúng: Hỡi quân xâm lược Đại Việt sẽ bị đánh bại hoàn toàn.

Bài thơ sử dụng hình thức ngắn gọn và súc tích của thể thơ bảy chữ. tác phẩm chỉ dài hai mươi tám chữ nhưng chứa đựng những tư tưởng, tình cảm lớn lao: khẳng định độc lập, chủ quyền dân tộc và thể hiện quyết tâm đấu tranh bảo vệ nền độc lập ấy. những từ ngữ súc tích, gợi cảm: nam đế, chơi lỗ, như hà … kết hợp hài hoà giữa biểu cảm và biểu cảm: bài thơ thiên về trình bày, nhưng ẩn sâu trong đó là những tâm tư, tình cảm, tình cảm của tác giả. giọng thơ trang trọng, hào hùng, tự tin.

bài thơ ngắn gọn, súc tích nhưng không chứa đựng những tư tưởng tình cảm cao đẹp. văn bản là bản tuyên ngôn đầu tiên của dân tộc ta về độc lập, chủ quyền của Tổ quốc. tác phẩm đã tạo nên niềm tin và sức mạnh chính nghĩa cho nhân dân ta trong cuộc trường kỳ kháng chiến của dân tộc.

phân tích bài Sông núi nước Nam – bài văn mẫu 3

Được coi là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam, bài thơ Thần Nam quốc sơn hà của Thủ tướng Lý Thường Kiệt đã trở thành bài thơ bất hủ. Bài thơ không chỉ khẳng định những vấn đề về lãnh thổ, chủ quyền, độc lập của dân tộc Việt Nam mà còn thể hiện tinh thần quật cường, lòng tự hào dân tộc mạnh mẽ của vị tướng tài ba cũng như dân tộc Việt Nam nói chung. bài thơ cũng là lời khẳng định lời tuyên bố mạnh mẽ của tác giả đối với những kẻ có ý đồ xâm phạm lãnh thổ ấy, tấn công vào lòng tự hào của một dân tộc anh hùng.

Trong cuộc chiến đấu chống quân của quân dân Đại Việt, Tể tướng Lý Thường Kiệt đã đọc bài thơ “Nam quốc sơn hà” ở đền thờ hai vị thần Trương Hồng và Trương Hát. họ là hai vị thần của dòng sông như mặt trăng. khi bài thơ thần này vang lên trong đêm, vang lên uy nghiêm và vững chãi từ một ngôi đền thánh khiến quân lính hết sức sợ hãi, vô cùng sợ hãi, lo lắng và căng thẳng. linh khí của đối phương nhanh chóng cạn kiệt. Nhờ đó, quân và dân ta đã làm nên chiến công lẫy lừng, anh dũng sau này.

ở phần đầu bài thơ, tác giả ly thường nói một cách chắc chắn và chắc chắn về vấn đề chủ quyền và biên giới lãnh thổ của dân tộc Đại Việt, đó là ranh giới đã được xác định trước, là nơi sinh sống của người Đại Việt. câu nói này không chỉ là phát biểu của tác giả, mà tác giả còn đưa ra những lý lẽ sắc bén, đó là bởi vì nó quy định “sách trời”. nghĩa là độc lập, chủ quyền trên lãnh thổ đó do trời đất quy định và chứng thực. một sự thật hiển nhiên mà không ai có thể phủ nhận:

“sông, núi, nước nam, nam vương biết rõ thân phận của mình trong sách trời”

“Sông núi nước nam” là vật sở hữu của nam giới, cũng là hình ảnh tượng trưng không chỉ về ranh giới, chủ quyền của nam giới mà còn khẳng định vững chắc quyền tài sản của nam giới. “núi sông” đó thuộc về đàn ông. chúng ta cũng có thể thấy rằng đây là lần đầu tiên trong một tác phẩm thơ mà đề tài chủ quyền Tổ quốc được khẳng định một cách mạnh mẽ và hào sảng như vậy. không chỉ là quốc gia có chủ quyền, lãnh thổ mà quốc gia đó còn có người lãnh đạo, quản lý và làm chủ nhân dân của quốc gia đó, tức là “man king”. chủ quyền đó, lãnh thổ đó không phải do đàn ông tự lựa chọn cho mình, người dân ở đó lâu nay chỉ sinh sống và làm ăn, do định mệnh “sách trời”. “Người dân ở đó chỉ sinh sống và làm ăn, do định mệnh” ” thiên đàng “rất có giá trị và rất đáng trân trọng.

“Rõ ràng” được dùng để chỉ điều hiển nhiên, khó tránh khỏi mà ai cũng có thể nhận ra và phân biệt được. “tri thiên mệnh trong sách trời” có nghĩa là lãnh thổ đó, chủ quyền của con người đã được ghi rõ ràng trong sách trời, dù muốn dù không cũng không thể chối bỏ. Vì vậy, ở hai dòng đầu của bài thơ, tác giả Lý Thường Kiệt không chỉ nêu lên một nhận định hào sảng, tự tin về lãnh thổ, biên giới quốc gia, về chủ quyền và bản lĩnh của dân tộc Đại Việt với đất nước và dân tộc của mình. , tác giả vẫn rất tỉnh táo và sắc bén khi đưa ra những lý lẽ đúng đắn, thuyết phục nhưng cũng đưa ra một chân lý mà không ai, không thế lực nào có thể phủ nhận, xác định, bác bỏ được. giọng nói hùng hồn, mạnh mẽ nhưng không giấu được niềm tự hào về chủ quyền của dân tộc mình.

Bắt đầu từ việc khẳng định mạnh mẽ chủ quyền của quốc gia Đại Việt, Lý Thường Kiệt đã lớn tiếng khẳng định, cũng là lời cảnh báo cho kẻ thù, đó là kết cục bi thảm mà chúng sẽ phải đối mặt. , gây đau khổ cho người dân Đại Việt:

“Vì giặc đến xâm lược sẽ bị đánh chết”

sự thật hiển nhiên là “phía nam sông núi” là nơi sinh sống của đàn ông, do đàn ông làm chủ. Nhưng bọn xâm lược đã không quan tâm đến những quy định cần thiết như vậy, chúng cố tình vi phạm đại việt cũng là một sự xúc phạm đến phẩm giá của đạo đức và luật trời: “Tại sao giặc lại xâm lược” hành động của chúng? sự ngông cuồng và vô nghĩa của họ đáng bị chỉ trích và thậm chí trừng phạt bằng những cách thích đáng nhất. và trong bài thơ này, tác giả Lý Thường Kiệt cũng khẳng định chắc nịch cái kết thê thảm và tủi nhục cho những tên trộm nước, coi thường đạo lý: “Chúng sẽ bị đánh chết”. Với tất cả sức mạnh, cũng như lòng tự tôn, chính nghĩa của dân tộc Đại Việt, quân xâm lược chỉ có một kết quả duy nhất là kết quả tất yếu là “bị đánh cho tơi bời”.

như vậy, bài thơ thần “nam quốc sơn hà” là một bài thơ, một bài thơ có tư tưởng chính trị trong sáng và sâu sắc, một bản tuyên ngôn hùng hồn và mạnh mẽ của dân tộc Việt Nam. bài thơ thể hiện niềm tự hào của dân tộc Việt Nam về chủ quyền thiêng liêng của dân tộc, về sức mạnh to lớn của nhân dân trong công cuộc chống giặc ngoại xâm.

phân tích sông núi phía Nam – mẫu 4

Xem thêm: Tổng Hợp Truyện Ngắn Của Nhà Văn Nam Cao

Bài thơ “nam quốc sơn hà” có tên chữ Hán “nam quốc sơn hà” được cho là của một kiệt tác. bài thơ đã góp phần làm nên chiến thắng của đoàn quân Bài ca trên sông như trăng. đây được coi là bản “tuyên ngôn độc lập” đầu tiên trong 3 bản tuyên ngôn của nước ta.

bài thơ được làm dưới dạng một bài thơ bảy chữ. hình thức và nội dung là sự kết hợp hài hòa trong một cấu trúc bảy chữ hoàn chỉnh. bài thơ là lời khẳng định quyền độc lập của dân tộc, chủ quyền của đất nước, thể hiện quyết tâm của toàn dân tộc trong công cuộc bảo vệ độc lập dân tộc.

Hai câu đầu tiên xác nhận những gì sách thiên đàng đã nói rõ ràng:

“núi sông phương nam, vua phương nam, trời chia đất”

Câu thơ tưởng như đơn giản nhưng lại chứa đựng một lời tuyên bố hùng hồn. đơn giản vì sông, núi, hướng nam, là vua thì không còn gì để bàn cãi. tuy nhiên, các thế lực phong kiến ​​phương Bắc đã lâu không nhìn ra chân lý đó. Từ trước Công nguyên, các thế lực phong kiến ​​Trung Quốc đã sang xâm lược nước ta, coi đây như một vùng đất bỏ hoang. ly thương kiết đưa “nam de” ngang hàng với “phương bắc” trong hai câu thơ trước. đó là giá trị của bài thơ. Sự tồn tại của nước Đại Việt dưới sự làm chủ của vua Việt là điều hiển nhiên và đã được ghi rõ trong thiên sách. câu thơ sử dụng hai chữ “nam” đã làm nổi bật lên danh nghĩa đại việt và vị thế độc lập của dân tộc. Với cách diễn đạt hết sức súc tích và hùng hồn, tác giả đã tuyên bố một chân lý bất khả xâm phạm: “núi sông, phương nam là nơi ở của các vị vua”.

Dòng thứ hai của bài thơ càng khẳng định sự thật đã xuất hiện ở dòng đầu tiên. tác giả đã khéo léo sử dụng từ trời trong câu thơ. Tư tưởng phương Đông nói chung đề cao ý trời hơn cả mệnh lệnh của vua, vua cũng phải tuân theo mệnh lệnh của trời. Chủ quyền của Đại Việt đã được ghi danh vào sách trời và không ai có thể thay đổi được. điều này chắc chắn đã khẳng định chủ quyền của Đại Việt trước các thế lực xâm lược.

Trên cơ sở khẳng định chủ quyền của đất nước, tác giả đã tố cáo dã tâm xâm lược của kẻ thù và khẳng định ý chí quật cường của dân tộc Đại Việt đối với độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia.

“Tại sao kẻ thù lại đến đây? bạn phải bị hỏng ”

Câu thơ tỏ ra nghi vấn nhưng thực chất là để khẳng định bản chất vô nghĩa của quân xâm lược. tiếp theo, tác giả khẳng định sự thất bại không thể tránh khỏi của quân xâm lược: “ắt tan tác”.

Câu thơ cuối thể hiện một niềm tin tất yếu vào lẽ phải của nhân dân ta, điều này dựa trên lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần độc lập dân tộc và truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc.

phân tích bài sông núi nước Nam – văn mẫu 5

Xem Thêm : Phân Tích Đặc Điểm Ngôn Ngữ Văn Học

“Sông núi nước Nam” được coi là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của Việt Nam. bởi đó là sự khẳng định chắc chắn chủ quyền lãnh thổ của quốc gia, cũng như bảo vệ ý chí quyết tâm bảo vệ chủ quyền đó trước mọi kẻ thù.

Năm 1077, đại quân do Quách Kiều chỉ huy sang xâm lược nước ta. vua lý nhân tông sai ly thường kiết hạ đem quân ngăn giặc phòng ngự non sông như trăng. Bỗng một đêm, viên quan nghe từ trong đền có hai anh em Trương Hổ và Trương Hát, hai vị tướng thiện chiến của triệu Quang Tự, được tôn là thần sông như trăng, có giọng ngâm bài thơ này:

“Nam quốc sơn hà nam đế cư mệnh tại thiên hạ như tráo vi xâm, hoàng đế đại bại”

hai câu thơ đầu là lời khẳng định chủ quyền lãnh thổ của quốc gia, dân tộc. Trong xã hội phong kiến, tất cả lãnh thổ, của cải vật chất, dân chúng của một nước đều thuộc về vua. vua là người có quyền quyết định mọi việc, ngay cả quyền giết người. hai chữ “nam de” có nghĩa là hoàng đế của nước phương nam, từ dùng để chỉ người đứng đầu một nước, thể hiện sự bình đẳng với phương bắc. câu thơ đầu vang lên như một lời tuyên bố hùng hồn: lãnh thổ phương nam phải do các đấng nam nhi tự cai quản. không dừng lại ở đó, câu thơ thứ hai tiếp tục nói lên điều trên là sự thật không thể bàn cãi, nó đã được ghi vào “book of Heaven” – sách của trời. Tư tưởng phương Đông luôn coi trọng mệnh trời. không thể phủ nhận chủ quyền của quốc gia được ghi trong sách thiên đàng.

Đó là sự thật, nhưng thực tế thì khác. giặc dám đưa quân sang xâm lược nước ta. hai câu thơ tiếp theo thể hiện rõ quyết tâm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của quốc gia, dân tộc. câu hỏi tu từ được sử dụng để làm bằng chứng cho sự bất công trong cuộc chiến của nghĩa quân: “sao giặc cứ sang đây xâm lược?”. những kẻ xâm lược đất nước của các dân tộc khác làm trái ý trời. đó là lý do tại sao kết quả sẽ rất khủng khiếp. kết thúc của một cuộc chiến tranh vô nghĩa là sự thất bại của kẻ thù xâm lược. đó là một sự thật đã được lịch sử chứng minh. câu thơ cuối thể hiện niềm tin vào thắng lợi tất yếu của dân tộc. đó là dựa trên lòng yêu nước và ý chí quyết tâm sâu sắc của nhân dân.

Với thể thơ cô đọng, súc tích, giọng thơ khỏe, hình ảnh mang tính biểu tượng cao, “nam quốc sơn hà” xứng đáng được gọi là “bài thơ thần”.

Phân tích bài Sông núi nước Nam – văn mẫu 6

“Nam quốc sơn hà” được coi là “bài thơ thần”, bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên do nội dung và nghệ thuật độc đáo.

Theo nghiên cứu hiện nay, có nhiều tài khoản về sự ra đời của bài thơ. Nhưng nổi tiếng hơn cả là sự tích: năm 1077, đạo quân do Quách cầm đầu đã quỳ xuống xâm lược nước ta. vua lý nhân tông sai ly thường kiết hạ đem quân ngăn giặc phòng ngự non sông như trăng. Bỗng một đêm, viên quan nghe thấy từ trong đền có hai anh em Trương Hộ và Trương Hát (hai vị tướng thiện chiến trong sắc phục triệu quang được tôn là thần non sông như trăng) ngâm bài thơ này.

Hai dòng đầu là lời khẳng định chủ quyền lãnh thổ và quốc gia:

“Nam quốc sơn hà nam đế đích thien thủ”

quan niệm cổ xưa cho rằng vua là “con trai của trời” (con trai của trời). mọi thứ thuộc về quốc gia như đất đai, nhà cửa, của cải… mọi thứ đều thuộc về vua. người có quyền quyết định sự sống chết của nhân dân cũng chính là vua. do đó, việc khẳng định núi sông phương nam là nơi sinh sống của vua phương nam là hoàn toàn có cơ sở. mà đặc biệt hơn cả là cụm từ “nam đế” – vị hoàng đế của đất nước phương Nam. đây vốn là từ dùng để chỉ người đứng đầu một quốc gia rộng lớn. việc dùng từ trên thể hiện lòng tự hào dân tộc – nước Nam cũng là nước lớn – độc lập về chủ quyền, lãnh thổ. nếu thay bằng cụm từ nam cư sĩ sẽ mất đi ý nghĩa tự hào dân tộc. không chỉ vậy, nhà văn còn đưa ra một chân lý không thể phủ nhận: “bờ vực chia trời đất nước”. chủ quyền lãnh thổ của nước ta đã được tuyên bố rõ ràng trong “the book of Heaven” – sách trời. Nó có giá trị lịch sử và pháp lý. điều này khẳng định chủ quyền lãnh thổ của dân tộc ta là chân lý không thể tranh cãi, bất di bất dịch như trong “chậu cúc họa mi”, nguyen trai từng viết:

“Giống như nước đại việt của chúng ta trước đây xưng là văn hiến lâu đời, nước non đã chia cắt biên giới, phong tục nam bắc cũng khác nhau; chữ, triệu, dinh, ly, tran, bao đời gây nền độc lập; cùng hán, tang, song, nhân dân tệ, mỗi bên mạnh một phương… ”

Ở hai dòng cuối, người viết đã nêu lên quyết tâm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia:

“giống như một kẻ bất lương tấn công những kẻ bất lương”

câu hỏi tu từ đặt ra như một cuộc tra vấn: “tại sao địch lại tiếp tục vào đây trái phép?” để khẳng định lại chủ quyền quốc gia. cũng như lời cảnh báo rằng những kẻ xâm lược đất nước của các dân tộc khác làm trái ý trời. để rồi cuối cùng họ sẽ phải chịu một kết cục vô cùng bi thảm. những kẻ đi cướp nước cuối cùng sẽ bị “đánh cho tơi tả”. chiến thắng luôn thuộc về phe chính nghĩa. Với hình thức thơ ngắn gọn, súc tích, giọng văn cao vút và những hình ảnh mang tính biểu tượng cao, “sông núi nước Nam” đã thể hiện được ý nghĩa nội dung sâu sắc.

Tóm lại, có thể đánh giá “sông núi nước Nam” xứng đáng là bản “tuyên ngôn độc lập” đầu tiên của dân tộc. bài thơ không chỉ để lại giá trị tư tưởng mà còn cả giá trị nghệ thuật.

phân tích bài sông núi nước Nam – văn mẫu 7

nam quốc sơn hà là sự khẳng định tuyên ngôn độc lập và chủ quyền quốc gia một cách mạnh mẽ. đồng thời tác phẩm cũng khẳng định quyết tâm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ đó.

Trong cuộc kháng chiến chống quân và dân ta, tể tướng Lý Thường Kiệt đã đọc bài thơ “Nam quốc sơn hà” tại đền thờ hai vị thần là trượng hồng, trượng hát, hai vị thần sông là Trăng. khi bài thơ thần này vang lên trong đêm, vang lên uy nghiêm và vững chãi từ một ngôi đền thánh khiến quân lính hết sức sợ hãi, vô cùng sợ hãi, lo lắng và căng thẳng. linh khí của đối phương nhanh chóng cạn kiệt. Nhờ đó, quân và dân ta đã làm nên chiến công lẫy lừng, anh dũng sau này.

phần mở đầu bài thơ đã khẳng định một cách chắc chắn và mạnh mẽ về chủ quyền, giới hạn lãnh thổ của dân tộc Đại Việt, đó là giới hạn đã định sẵn, là nơi sinh sống của dân tộc Đại Việt. Việt Nam. câu nói này không chỉ là phát biểu của tác giả, mà tác giả còn đưa ra những lý lẽ sắc bén, đó là bởi vì nó quy định “sách trời”. nghĩa là độc lập, chủ quyền trên lãnh thổ đó do trời đất quy định và chứng thực. một sự thật hiển nhiên mà không ai có thể phủ nhận:

“sông, núi, nước nam, nam vương biết rõ thân phận của mình trong sách trời”

sông núi nước Nam là vật làm chủ của đàn ông, cũng là hình ảnh tượng trưng không chỉ về biên cương, chủ quyền của đàn ông mà còn khẳng định vững chắc quyền làm chủ “non sông”. “núi” thuộc về đàn ông. chúng ta cũng có thể thấy rằng đây là lần đầu tiên trong một tác phẩm thơ mà đề tài chủ quyền Tổ quốc được khẳng định một cách mạnh mẽ và hào sảng như vậy. không chỉ là quốc gia có chủ quyền, lãnh thổ mà quốc gia đó còn có người lãnh đạo, quản trị và làm chủ nhân dân của quốc gia đó là “nam vương”. Chủ quyền đó, lãnh thổ đó, không phải do con người tự lựa chọn cho mình, người dân ở đó lâu nay chỉ sinh sống và làm ăn, do vận mệnh của “sách trời”. .

“Rõ ràng” được dùng để chỉ điều hiển nhiên, khó tránh khỏi mà ai cũng có thể nhận ra và phân biệt được. “tri thiên mệnh ở sách trời” có nghĩa là lãnh thổ đó, chủ quyền của con người đã được ghi rõ ràng trong sách trời. Chính vì vậy, ở hai dòng đầu của bài thơ, tác giả Lý Thường Kiệt không chỉ đưa ra lời bình mà còn là lời khẳng định hào sảng, tin tưởng về lãnh thổ, biên giới quốc gia, chủ quyền và quyền thống trị của dân tộc Đại Việt với đất nước và dân tộc của mình, tác giả vẫn rất tỉnh táo và sắc bén khi đưa ra những lý lẽ xác đáng, thuyết phục nhưng cũng đưa ra một chân lý mà không ai, không thế lực nào có thể phủ nhận, xác định, bác bỏ được. chất giọng mạnh mẽ, hùng hồn nhưng không giấu được niềm tự hào về chủ quyền của dân tộc mình.

Trên cơ sở khẳng định chủ quyền của dân tộc Đại Việt một cách mạnh mẽ, bài thơ đã khẳng định, ngoài lời cảnh báo cho kẻ thù, đây là cái kết bi thảm mà chúng sẽ phải nhận nếu biết nhưng vẫn cố tình thực hiện hành vi. của cuộc xâm lược. của lãnh thổ, gây bao đau thương cho dân tộc Đại Việt:

“chính vì vậy mà quân xâm lược đến xâm lược sẽ bị đánh cho tơi tả”

sự thật hiển nhiên là “sông núi phía Nam” là nơi sinh sống của đàn ông và đàn ông làm chủ. Nhưng bọn xâm lược đã không quan tâm đến những quy định cần thiết như vậy, chúng cố tình vi phạm đại việt cũng là một sự xúc phạm đến phẩm giá của đạo đức và luật trời: “Tại sao giặc lại xâm lược” hành động của chúng? sự ngông cuồng và vô nghĩa của họ đáng bị chỉ trích và thậm chí trừng phạt bằng những cách thích đáng nhất. và trong bài thơ này, tác giả Lý Thường Kiệt cũng khẳng định chắc nịch cái kết thê thảm và tủi nhục cho những tên trộm nước, coi thường đạo lý: “Chúng sẽ bị đánh chết”. Với tất cả sức mạnh, lòng tự tôn, chính nghĩa của dân tộc Đại Việt, quân xâm lược chỉ có một kết cục, kết cục tất yếu là “bị đánh cho tơi bời”.

bài thơ “Nam quốc sơn hà” là một bài thơ, một bài thơ có tư tưởng chính trị trong sáng và sâu sắc, một bản tuyên ngôn hùng hồn và hùng tráng của dân tộc Việt Nam. bài thơ thể hiện niềm tự hào của dân tộc Việt Nam về chủ quyền thiêng liêng của dân tộc, về sức mạnh to lớn của nhân dân trong công cuộc chống giặc ngoại xâm.

Phân tích bài sông núi nước Nam – văn mẫu 8

vào cuối năm 1076, quân đội sang xâm lược nước ta. Dưới sự chỉ huy của Thái úy Lý Thường Kỉnh, quân nam chặn địch trên tuyến sông Cầu và đến tháng 3 năm 1077, đánh tan quân địch. Tương truyền, để khích lệ ý chí chiến đấu và làm tan rã tinh thần của quân ta, Lý Thường Kiệt đã đọc bài thơ sau vào lúc nửa đêm bên bờ sông.

mở đầu bằng câu thơ khẳng định quyền độc lập, tự chủ của dân tộc:

“hoàng đế nam quốc sơn hà nam”

(sông núi ở phía nam, nơi vua ở)

Xem thêm: Ý nghĩa nhan đề Những ngôi sao xa xôi – Giải thích nhan đề Những ngôi sao xa xôi

nam quoc là một quốc gia phía nam tự xưng là quốc gia sẽ xóa bỏ ấn tượng từng bị cai trị trong thời kỳ bắc thuộc. Từ thế kỷ X, nước ngoài đã đánh đuổi quân Hán phương Nam vào sông Bạch Đăng, lập nên nhà nước độc lập tự chủ, nhưng bọn phong kiến ​​phương Bắc vẫn coi nước ta là quận lỵ, họ đặt dinh Bộ Chỉ là quan. chỉ vua của quận. nên cùng với thời gian, danh xưng nam quốc và nam đế có một ý nghĩa lịch sử đặc biệt.

Câu thơ nhấn mạnh một chân lý giản dị, hiển nhiên nhưng đầy chiều sâu lịch sử sau mười thế kỷ đấu tranh của dân tộc ta, thể hiện tinh thần độc lập tự chủ, tinh thần bình đẳng dân tộc.

p>

“thiên mệnh tại thiên”

(biên giới được viết rõ ràng trong sách thiên đàng)

đương nhiên là hiển nhiên, hắn có một đạo lý chính đáng không thể lay chuyển; số phận là một số phận đã định sẵn và không bị xáo trộn. quyền chủ quyền của vua nam trên trái đất là điều đã được viết trong sách thiên đàng. vận mệnh của đất nước phương Nam có lãnh thổ riêng của mình, đó là điều tuyệt đối, một sự thật hiển nhiên.

Nếu câu thơ thứ nhất nhấn mạnh chân lý do con người quyết định, thì câu thơ thứ hai mang tính chất thần thánh, niềm tin gần như tuyệt đối vào thời phong kiến, ý thơ như một điềm báo thắng thua giữa ta và địch. Chúng ta sẽ chiến thắng không chỉ bằng sức riêng của chúng ta, mà còn bằng ý chí của Đức Chúa Trời. kẻ thù sẽ bị đánh bại bởi những hành động bất công của bạn.

sự thật của nam quốc sơn hà được củng cố bởi sức mạnh siêu nhiên của số phận, để khẳng định niềm tin vào chiến thắng của chúng ta.

bài thơ quyết tâm bảo vệ đất nước, khẳng định quân thù tất yếu:

“giống như cuộc xâm lược nguy hiểm của các giống lai lỗ?”

(tại sao kẻ thù lại đến xâm lược?)

như ha là bao, nghịch ngợm thì ngược lại, lỗ mãng dã man. đây là một câu hỏi vừa hàm ý ngạc nhiên vừa khinh bỉ. ngạc nhiên vì họ giả vờ là các tầng trời và các vì sao, nhưng trái với mệnh lệnh của các tầng trời; bị coi thường vì họ tự hào là đất nước có nền văn minh hàng đầu, là người Trung Hoa, là tinh hoa của muôn dân, đó là lý do họ hành động như những kẻ man rợ, dựa dẫm vào kẻ yếu.

Lập trường của chúng tôi là vững chắc: chúng tôi giữ gìn biên giới, chúng tôi bảo vệ đất nước với đầy đủ chính nghĩa, công lý rõ ràng. bọn họ là kẻ thù nghịch, trái ý trời, làm những chuyện ngang ngược hơn cả. giọng thơ hùng hồn, vừa mạnh dạn tố cáo dã tâm của kẻ thù, vừa lăng mạ, bôi nhọ quân xâm lược với tư thế của một kẻ bề trên đang nắm quyền trong tay, mắng nhiếc kẻ tham lam ngu xuẩn, đê hèn.

“kẻ xấu xuất sắc ngang bằng”

(chúng tôi sẽ chấp nhận thất bại và thiệt hại)

đẳng cấp bây giờ cũng vậy, khán giả xem, phòng ngự là nhận, thua là phá, thua, hư không nhìn, chẳng đi đến đâu. câu thơ là câu trả lời, nhưng nó không trả lời trực tiếp, thay vào đó dự đoán số phận của họ khi thua trận một cách suôn sẻ.

câu cuối tiếp nối câu của ba câu trước. không thể hiểu được chân tướng, cũng không hiểu được trời đất, dẫn quân đi xâm lược đất nước của thiên hạ, bay thấy bại, nhục nhã tán gia bại sản.

Bài thơ khẳng định quyền độc lập, tự quyết của dân tộc ta từ ngàn đời nay. Quyền độc lập, tự túc này được phát triển cụ thể trong Tuyên ngôn Độc lập vĩ đại của Nguyễn Trãi (Mỗi bên có quyền một bên …) và trong Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh (Nước Việt Nam có quyền). ). được hưởng tự do và độc lập …)

truyền thống lịch sử đó quyết định một chân lý: dân tộc ta luôn chống giặc ngoại xâm để bảo vệ nền độc lập tự chủ, tự cường. Phong kiến ​​phương Bắc đã mười lăm lần xâm lược nước ta, gần đây là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nhưng cuối cùng chúng cũng thất bại và bị đuổi khỏi đất nước. trên thực tế, tinh thần quật khởi chống xâm lược đó được phát huy từ tinh thần của vị hoàng đế nam quốc sơn hà.

Phân tích bài Sông núi nước Nam – văn mẫu 9

Bài thơ “Nam quốc sơn hà” tương truyền là bài thơ trữ tình gắn liền với chiến công của quân và dân Đại Việt trước quân xâm lược.

“sông, núi, nước, nam vương ở mệnh trời trong, sao giặc ngoại xâm? sẽ bị đánh đập ”

Hai câu thơ đầu nói về sông núi nước Nam, đất nước Việt Nam nơi nam đế cư ngụ (Nam vương cư ngụ). hai từ nam từ bắc; nam đế ở một bên, không phải là thuộc hạ của triều đình. Nam vương là người đại diện cho quyền và lợi ích tối cao của đất nước và nhân dân ta. sông núi phía nam thuộc chủ quyền của nam đế, có thành thăng long, có căn cứ địa vững chắc và độc lập. Không chỉ vậy, núi sông phương nam đã được định đoạt, được khai thiên trong sách trời, đã được sách trời phân chia, nghĩa là có lãnh thổ, giới hạn và biên giới riêng.

Hai chữ sách trời (sách của trời) trong câu thơ thứ hai gợi lên màu sắc thiêng liêng với niềm tin mãnh liệt trong lòng người. câu hát vang lên như một tuyên bố về chủ quyền thiêng liêng của Đại Việt:

“sông, núi, nước nam, nam vương biết rõ vận mệnh của mình trong sách trời”

(hoàng đế nam quốc sơn hà nam, thiên mệnh tại thien thu)

từ đó nhận thức và niềm tin về sông núi nước Nam, lý thương yêu đã lên án hành động xâm lược gian ác và tham vọng bành trướng phi nghĩa của kẻ thù. Những âm mưu và hành động xâm lược của các ngươi đã đi ngược lại ý muốn của Đức Chúa Trời và xúc phạm đến quốc gia của chúng ta. câu hỏi lên án kẻ thù vang lên đanh thép và tức giận:

“tại sao quân xâm lược lại đến xâm lược?”

Xem Thêm : Mùa xuân nho nhỏ – Tác giả tác phẩm – Ngữ văn lớp 9

(làm thế nào để chuyển?)

Người anh hùng dân tộc đã nghiêm khắc cảnh báo quân xâm lược phương bắc và chỉ ra rằng chúng sẽ bị nhân dân ta đánh cho tơi tả, sẽ phải chịu một thất bại nhục nhã:

“sẽ bị đánh bại”

Các cụm từ 3, 4 với giọng thơ hùng hồn, mạnh mẽ đã thể hiện tinh thần đoàn kết, chiến đấu của nhân dân ta quyết đánh đuổi quân xâm lược bằng những đòn quyết tử để bảo vệ non sông, núi non nước Nam. chiến thắng sông cau năm 1076 là minh chứng hùng hồn cho ý thơ trên. triệu tiết, quỳ quách cùng hơn 200.000 binh sĩ đã bị quân dân Đại Việt đánh bại và bị loại khỏi trần gian.

nam quốc sơn hà là bài ca yêu nước chống xâm lược. Bài thơ khẳng định chủ quyền dân tộc và ca ngợi lực lượng chiến đấu bảo vệ đất nước của Đại Việt. Với nội dung đó, bài thơ Nam quốc sơn hà có ý nghĩa lịch sử như một bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam.

phân tích bài sông núi nước Nam – văn mẫu 10

Trong hơn một nghìn năm Bắc thuộc, nhân dân ta đã phải sống trong tâm trạng khao khát, khát vọng có được cuộc sống tự do hạnh phúc. vì vậy chúng ta có thể tưởng tượng hạnh phúc sẽ lớn lên biết bao nhiêu khi đất nước Đại Việt của chúng ta có chủ quyền, tự do và độc lập. lịch sử đã ghi lại điều đó, nhưng trong văn học, phải đến gần trăm năm sau, khi bài thơ Nam quốc sơn hà ra đời, chúng ta mới chính thức tuyên bố chủ quyền và ý chí tự cường của dân tộc mình. bài thơ từ đó đã vang vọng qua hàng nghìn năm lịch sử:

“nam quốc sơn hà nam đế đích cư ở thien thủ, bội bạc ác báo”

nguyên tác bài thơ được coi là của tướng quân thương thuyết, một người con của đất Thăng Long. tuy nhiên, cho đến ngày nay, câu trả lời cho câu hỏi ai là tác giả của bài thơ vẫn còn bỏ ngỏ. Tôi chỉ biết rằng bài thơ ra đời khi cuộc giao tranh giữa quân ta và quân đô hộ đang diễn ra ác liệt. Bài thơ được xướng lên tại Đình Trường Hồng, Trường Hát đã trở thành lời động viên ý chí quyết tâm của nghĩa quân tiến lên diệt giặc. lời thơ mở đầu trang trọng và vô cùng hàm súc:

“núi, sông, nước, nam vương sống trên trời chia đất”

câu thơ khẳng định một chân lý bất di bất dịch rằng “sông núi nước Nam” là nơi cư ngụ của con người. từ cư trong nguyên tác không chỉ được hiểu là sinh mệnh, mà còn phải nói là nam vương đại vương có quyền thống trị chính quyền. ở vùng đất này, hoàng đế phương nam không thua kém hoàng đế phương bắc. nước có vua nghĩa là nước đó có độc lập và chủ quyền.

Ngoài ra, chủ quyền sông núi nước Nam đã được sách thần xác định rõ ràng. là sự thật khách quan, những gì trên đã thuận theo ý trời, những gì ở dưới không ai thay đổi được, hai câu thơ là lời khẳng định mạnh mẽ ý chí, niềm tin vào độc lập, chủ quyền và về tinh thần của quốc gia tự cường của đất nước đại việt chúng ta. có thể nói hai câu thơ đầu đã tiếp thêm lòng căm thù và quyết tâm cho bản tuyên ngôn sau:

“Tại sao kẻ thù lại đến đây? bạn phải bị hỏng ”

Cuộc xâm lược man rợ và tàn bạo của kẻ thù nhất định đi ngược lại đường lối của trời. những việc làm như vậy là vô nghĩa nên chắc chắn sẽ bị đánh bại. “… nếu hai câu thơ đầu là lời khẳng định chân lý về độc lập, chủ quyền thì hai câu thơ sau là lời khẳng định chân lý về độc lập, chủ quyền. khẳng định niềm tin là chiến thắng, có được niềm tin đó bởi chúng ta có tinh thần đoàn kết, truyền thống yêu nước lâu đời, có ngọn cờ chính nghĩa và chúng ta cũng có những người con ưu tú, anh hùng luôn chiến đấu mưu lược, dũng cảm trong các cuộc chiến tranh để bảo vệ và giữ gìn sự trường tồn. của đất nước và quê hương.

nam quốc sơn hà là một bài thơ ngắn gọn, sắc sảo gồm bảy chữ. nó xứng đáng là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên thể hiện lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đồng thời thể hiện ý chí, sức mạnh và tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam.

phân tích sông núi phía Nam – mẫu 11

Khi nhắc đến bản tuyên ngôn độc lập của nước ta, chúng ta thường nghĩ đến bản tuyên ngôn độc lập được đọc tại quảng trường Ba Đình ngày 2 tháng 9 năm 1945. Nhưng trước đó đã có một số tác phẩm mang dấu ấn và tính chất của bản tuyên ngôn. Sự độc lập. và trong đó không thể không kể đến bài thơ thần nam quốc sơn hà.

“Nam quốc sơn hà nam đế cư nhiên được thiên mệnh làm phản trắc phi từ ho lai? kẻ xấu đã bị đánh bại ”

Xem thêm: Phân tích tác phẩm Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng – HOCMAI

Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt gồm bảy chữ, viết bằng chữ Hán. bài thơ không có tiêu đề. Cái tên “nam quốc sơn hà” được các nhà soạn thơ đặt cho một tuyển tập thơ văn dựa trên bốn chữ đầu của bài thơ. bài thơ nam quốc sơn hà có ít nhất 35 phiên bản sách và 8 phiên bản thần thoại.

bài thơ này lần đầu tiên được ghi trong các sách như Việt điện u linh tập, nhưng bản nam quốc sơn hà trong Việt điện u linh tập không phải là bản hay nhất được ghi chép trong sách đại sử việt văn toàn thư mới là phiên bản phổ biến nhất. Đại việt sử ký toàn thư được biết đến là chính truyện đầu tiên ghi lại bài thơ này.

nam quốc sơn hà được sáng tác vào năm nào? Phân tích nam quốc sơn hà, ta thấy bài thơ ra đời trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt của đất nước. Cuối năm 1076, nhà Tống có ý đồ xâm lược Đại Việt. vua tông phái quân sang xâm lược nước ta. Tuy là một nước nhỏ nhưng chúng ta kiên quyết không để mất nước, quân dân đoàn kết chống giặc ngoại xâm.

Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Thái úy Lý Thường Kiệt, quân ta đã chặn đánh địch ở tuyến sông cầu và đến tháng 3 năm 1077, quân ta đã đánh tan quân địch. Hiện vẫn chưa rõ tác giả của bài thơ này. nhưng giả thuyết được chấp nhận nhiều nhất cho rằng bài thơ là một kiệt tác. Tương truyền, để cổ vũ, động viên ý chí chiến đấu của quân ta cũng như làm tan rã tinh thần quân thù, Lý Thường Kiệt đã phải nửa đêm đọc bài thơ trên bờ sông Cầu.

lời ca ấy vang xa khắp thiên hạ, khiến nghĩa quân tin rằng trời đất phù hộ cho cuộc kháng chiến và đây là một tín hiệu đáng mừng, lòng dân được củng cố, tinh thần thăng hoa. tướng quân thường hết thời cơ đó, liền cho quân vượt sông, bày trận quyết định tấn công, chủ động tấn công vào doanh trại địch.

Một phần vì yếu tố bất ngờ, một phần vì tinh thần chiến đấu của quân đội Việt Nam đang lên cao, quân hộ tống còn yếu, số chết và bị thương quá nửa. quân bại trận. lee thường đi trước đón đầu nên không tiếp tục tấn công mà lập tức cử người đến cầu an, mở đường cho quân rút về nước, chiếm lại giang sơn, giữ vững lãnh thổ đại việt.

Khẳng định chủ quyền đất nước, phân định lãnh thổ rõ ràng là những ý chính của câu thơ đầu bài Anh hùng xạ điêu. mở đầu bài thơ là câu thơ mạnh mẽ khẳng định quyền độc lập, tự chủ của dân tộc:

“hoàng đế nam quốc sơn hà nam”

(sông núi ở phía nam, nơi vua ở)

“quốc gia phía nam” ở đây dùng để chỉ quốc gia phía nam, nhằm mục đích xác định rõ ràng ranh giới của đất nước. danh hiệu “vương quốc phương nam” đã thể hiện rõ vị thế vững chắc của đất nước. Vì một ngàn cuộc Bắc thuộc đã kết thúc khi Ngô Quyền đại bại quân Nam Hán ở sông Bạch Đằng, nên nhà cầm quyền Trung Hoa vẫn chỉ coi nước ta là một quận, huyện chỉ thuộc về Trung Hoa. do đó, câu nói “nam quốc” có một ý nghĩa đặc biệt.

câu thơ ngắt nhịp 4/3, tách thành hai đoạn: “sông núi nước Nam”, “vua phương nam”. hai mặt này có quan hệ mật thiết với nhau. ý thức về không gian lãnh thổ của quốc gia là quan trọng, nhưng việc xác định quyền sở hữu đối với lãnh thổ đó còn quan trọng hơn. tương ứng với “nam quoc” là “nam de”.

Trong quan niệm của người Trung Quốc, chỉ có vua của Trung Quốc mới xứng đáng là hoàng đế, là con trời, còn các quốc gia khác chỉ dám xưng vương, không có một nước nhỏ nào dám xưng đế như người Trung Quốc. . chỉ có nước ta khẳng định mạnh mẽ rằng ta và Trung Quốc là hai nước độc lập, có quyền bình đẳng. và nước phương nam thuộc về người dân nước nam, do vua phương nam đại diện.

Trong một dòng thơ ngắn, hai từ “nam tính” dường như không chỉ tạo nhịp điệu cho câu thơ mà còn khẳng định ý thức chủ quyền mãnh liệt. Nhìn vào Nam quốc sơn hà ta có thể thấy so với Đại cáo ngô đồng của Nguyễn Trãi xác định chủ quyền trên nhiều phương diện hơn.

“cũng giống như nước đại, ta đã xưng đế từ lâu, núi sông chia cắt nam bắc. Phong tục cũng khác triệu, định, ly, trần, bao đời gây độc lập với han, tang. và tong., mỗi bên đều xưng vương, tuy mạnh yếu tùy thời, nhưng mỗi thế hệ đều có một kiệt tác ”

trong bài thơ này, tuy “thần” vừa xác định vừa khẳng định chủ quyền lãnh thổ chưa thấu đáo nhưng điều đó không làm giảm ý nghĩa của bài thơ. cơ sở để xác định chủ quyền quốc gia qua câu thứ hai. để xác định chủ quyền của đất nước, ly thuong kiet đã đưa ra những cơ sở sau:

“không may tại mệnh trời”.

(biên giới được viết rõ ràng trong sách thiên đàng)

“tất nhiên” là hiển nhiên, tất nhiên, nó có một đạo đức chính đáng mà không ai có thể thay đổi hoặc phủ nhận. và “số phận” là để định đoạt các bên. và trong trường hợp này “thiên mệnh” ở đây là chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc thiêng liêng. nếu para nguyen trai dựa trên lịch sử, thì ly thuong kiet dựa trên thien thu. chủ quyền của nam vương đối với đất nước là điều đã được ghi trong sách trời. “thiên thu” là sách trời, chính sách thần thánh đã định mệnh cho đất nước phương Nam có biên giới riêng. là luật, không thể phủ nhận một điều hiển nhiên về chủ quyền của đất nước.

nếu câu đầu tiên đưa ra một tuyên bố, thì câu tiếp theo là một bằng chứng. tuy cơ sở xét xử và xác định có phần duy tâm, nhưng cần phải xem lại bối cảnh lịch sử đương thời để hiểu rõ hơn. Người xưa tin rằng mọi sinh vật, cuộc sống của con người đều do bàn tay tạo hóa sắp đặt. con người không được phép vượt quyền của đấng tạo hóa, vì vậy hành động xâm phạm biên giới của quốc gia khác không chỉ là sự xúc phạm đến quốc gia đó, mà còn là sự xúc phạm đối với thần linh. chính vì đã định rõ đất nước của đấng nam nhi, cho nên giặc ngoại xâm đã vi phạm thiên mệnh, nên nhất định sẽ thất bại.

sự khẳng định mạnh mẽ và sự tức giận sâu sắc đối với kẻ thù. Chúng ta có thể thấy rằng từ việc khẳng định chủ quyền đất nước, Người đã lên án và khẳng định ý chí quyết tâm đánh giặc của quân dân Đại Việt.

“giống như cuộc xâm lược nguy hiểm của các giống lai lỗ?”

(tại sao kẻ thù lại đến xâm lược?)

“like ha” có nghĩa là như thế nào, “pseudo” có nghĩa là ngược lại, “lỗ” có nghĩa là man rợ. ở đây “lỗ” chỉ kẻ xâm lược. chúng giống như những kẻ man rợ khi chúng xâm chiếm lãnh thổ của chúng ta. Cuộc xâm lược không chỉ đe dọa hòa bình, độc lập của dân tộc mà còn chà đạp đất đai, gây bao đau thương cho nhân dân, nước mắt căm thù trào ra khắp đất nước.

Đây là một câu hỏi tu từ chứa đựng cả sự ngạc nhiên và khinh bỉ. thật đáng kinh ngạc tại sao tòa thiên đình, tự xưng là con trời, con trời lại dám làm trái ý trời và can thiệp vào sự luân chuyển của sinh vật. khinh thường là vì một quốc gia tự cho mình ở vị trí cao hơn các quốc gia khác phần lớn dựa vào ức hiếp kẻ yếu, xâm chiếm lãnh thổ của nước nhỏ hơn trong khi nước ta vẫn cống hiến để duy trì các mối quan hệ.

Đó là lý do tại sao chúng tôi bảo vệ chủ quyền của đất nước chúng tôi là một hành động chính nghĩa phù hợp với ý chí của nhân dân, đó là lý do tại sao chúng tôi chiến đấu với một tâm trí vững chắc. Chúng ta bảo vệ đất nước mà tổ tiên chúng ta đã xây dựng từ bao đời nay, chúng ta bảo vệ cuộc sống của người nghèo, chúng ta bảo vệ công lý …

Ngược lại là giặc ngoại xâm, chúng xâm lược với những mục đích phi pháp nên đây là cuộc xâm lăng vô nghĩa nhằm thỏa mãn nhu cầu quyền lực và tham vọng bá quyền. họ đã phạm nhiều tội ác không được trời đất tha thứ. chính vì tham vọng của kẻ thù và chính ta là kẻ nắm quyền trong tay nên giọng thơ trong sáng, hào sảng. phân tích Nam quốc sơn hà sẽ thấy nhà thơ đã nhận thức rõ tâm trạng và mục đích của hai cuộc kháng chiến nên đã có những vần thơ hùng tráng và hào hùng.

<3

(bạn sẽ đón nhận thất bại)

“nhu dang” là đại từ ngôi thứ hai có nghĩa là một nhóm người, “khan” là cách đọc khác dành cho khán giả. và “thủ” là nhận, “thua” là thua, “hư” nghĩa là chẳng đi đến đâu. câu thơ cuối xác lập một cách chắc chắn kết quả của cuộc chiến. kết quả đó không phải là viển vông hay ảo ảnh mà là sự kết hợp của nhiều yếu tố.

Đó là về mục đích của cuộc chiến tranh, về chính nghĩa của cuộc kháng chiến và cả về truyền thống bất khuất chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta. quân ta có thể ít về quân số, không có vũ khí chiến đấu, đây có thể là cuộc chiến không cân sức, tương quan lực lượng sâu, nhưng điều quan trọng nhất là ngọn cờ chính nghĩa đã đứng về phía ta. .

cũng bởi lòng yêu nước nồng nàn, sâu sắc của mỗi người dân Việt Nam đã kết nối tạo thành nguồn sức mạnh to lớn giúp nước ta chiến thắng bao cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa của quân phi nghĩa phương Bắc. . quân xâm lược phương bắc không hiểu chân lý, không hiểu lẽ ​​trời, nhưng lại bị lòng tham làm cho mù quáng. nếu họ đến xâm lược mà không có lý do, kết quả sẽ là trắng tay, nhục nhã chịu thất bại và trở về nước.

Bài thơ đã khẳng định chủ quyền và quyết tâm đánh giặc ngoại xâm của đất nước ta. truyền thống lịch sử đã xác lập một chân lý rằng, từ bao đời nay dân tộc ta luôn đứng về phía chính nghĩa, giơ cao cánh tay phải chống lại mọi cuộc chiến tranh ngoại xâm. mục đích đó và truyền thống anh hùng ấy đã được tiếp nối qua nhiều thế hệ để luôn giữ vững hòa bình dân tộc.

sau này không chỉ có quân xâm lược phương bắc mà còn là thực dân Pháp, Nhật, Mỹ. chiến tranh ngày càng ác liệt nhưng phần thắng vẫn thuộc về chúng ta vì chúng ta chiến đấu để bảo vệ sông núi. giọng hát mạnh mẽ và hào hùng ấy sẽ luôn vang xa. xuyên suốt bài thơ, không một chút sợ hãi trước cường quyền của triều đại phương bắc mà luôn giữ vững niềm tin tất thắng.

Ta cũng thấy được tâm thế ấy ở hũ ngô, tướng quân,… tuy xét về tính hoàn chỉnh, bài thơ có thể chưa nhìn bao quát được những khía cạnh chưa vạch rõ tội ác của kẻ thù. thiên nhiên và giọng điệu của bài thơ sẽ luôn ngân vang với dòng sông.

Chỉ với hai mươi tám chữ ngắn gọn, súc tích, bài thơ đã truyền tải một ý chí phi thường và một sức mạnh to lớn về ý thức chủ quyền lãnh thổ, về tinh thần bất khuất của dân tộc ta. bài thơ kết thúc, nhưng những suy nghĩ ấy vẫn còn mãi với thời gian. đó là cuộc sống của tác phẩm…

phân tích bài sông núi nước Nam – văn mẫu 12

bài thơ nam quốc sơn hà là lời khẳng định mạnh mẽ về chủ quyền lãnh thổ của dân tộc, cũng như quyết tâm bảo vệ chủ quyền trước mọi kẻ thù:

“Nam quốc sơn hà nam đế, tự nhiên là thiên mệnh. như phản bội xâm lược, kẻ thống trị xứng đáng bị đánh bại.”

Khi nói đến sự ra đời của bài thơ, có rất nhiều truyền thuyết. Nhưng nổi tiếng nhất là vào năm 1077, khi đoàn quân do Quách cầm đầu quỳ xuống xâm lược nước ta. vua lý nhân tông sai ly thường kiết hạ đem quân ngăn giặc phòng ngự non sông như trăng. Bỗng một đêm, viên quan nghe từ trong miếu truyền rằng hai anh em Trương Hộ và Trương Hát, hai vị tướng thiện chiến trong sắc phục triệu quang được tôn là thần sông như trăng, cất giọng ngâm thơ này. .

Theo quan niệm của xã hội cổ đại, tất cả lãnh thổ, của cải vật chất và nhân dân của một quốc gia đều thuộc về nhà vua. rằng anh ta có quyền quyết định mọi thứ, thậm chí cả quyền giết người. việc sử dụng từ “hoàng đế của phương nam” để chỉ người đứng đầu một quốc gia – thể hiện sự bình đẳng với phương bắc. câu thơ thứ hai vẫn là một lời khẳng định. hình ảnh “the book of Heaven” có nghĩa là cuốn sách của thiên đường. lãnh thổ và lãnh thổ của đất nước được ghi tên vào sách thiên đàng. Điều đó khẳng định chủ quyền lãnh thổ của dân tộc ta là sự thật không thể chối cãi và không thể thay đổi.

Với câu nói đó, hai câu thơ tiếp theo tiếp tục khẳng định quyết tâm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc. câu hỏi tu từ “như tréo ngoe lỗ lai xâm?” Như một lời cảnh báo, cảnh báo quân xâm lược xâm phạm lãnh thổ là trái ý trời. và từ đó, câu thơ cuối cùng ngân vang đanh thép. những kẻ xâm lược và cướp nước từ các dân tộc khác sẽ không có kết cục tốt đẹp. giọng thơ trong sáng, hùng hồn, đanh thép thể hiện quyết tâm bảo vệ độc lập dân tộc.

“Nam quốc sơn hà” được coi là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam. bài thơ đã thể hiện tinh thần yêu nước cũng như ý chí quyết tâm bảo vệ của nhân dân ta trước mọi kẻ xâm lược.

Nguồn: https://truongxaydunghcm.edu.vn
Danh mục: Văn Học

Related Articles

Back to top button