Khảo Cứu Đặc Trưng Của Điển Tích Điển Cố Trong Văn Học Trung Đại Việt Nam

Trong tiến trình vận động và phát triển của mình, văn học Việt Nam đã vay mượn, chuyển dịch, tự tạo nhiều điển cố để sử dụng. Ở mỗi chặng đường phát triển của văn học Việt Nam, lịch sử vận dụng điển cố lại có những thay đổi nhất định, phản ánh phần nào những bước đi lớn của văn học dân tộc. Ở một phương diện nào đó, có thể xem, lịch sử văn học Việt Nam là lịch sử sử dụng điển cố, một phương tiện tu từ đặc biệt được sử dụng trong suốt tiến trình văn học nước ta.

Đang xem: điển tích điển cố trong văn học trung đại việt nam

Với tư cách là một thuật ngữ văn học, điển cố được đề cập đến trong nhiều công trình văn học sử, chuyên luận. Trong bài viết này, chúng tôi thống nhất xem điển cố “là những từ ngữ về chuyện xưa, tích cũ, về tư tưởng, hình tượng trong sách xưa được tác giả dùng làm phương tiện để diễn đạt một ý tưởng ngắn gọn, hàm súc”, như quan niệm của tác giả Đoàn Ánh Loan trong chuyên luận Điển cố và nghệ thuật sử dụng điển cố.

Như đã biết, điển cố được sử dụng từ rất sớm trong văn học dân gian. Tuy nhiên, trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến tiến trình văn học viết. Bởi văn học dân gian có trước và tồn tại song song cùng văn học viết, có quy luật vận động riêng; đồng thời, do tính chất tập thể và truyền miệng, việc dụng điển trong văn học dân gian thường ít mang dấu ấn phong cách cá nhân và thời đại. Việc xem xét tiến trình văn học dân gian từ góc nhìn điển cố so với văn học viết, do vậy, ít mang tính tiêu biểu hơn.

II. Lịch sử dụng điển cố trong tương quan với tiến trình văn học Việt Nam

Điển cố gốc Hán với văn học trung đại giai đoạn đầu

Trong văn học trung đại Việt Nam giai đoạn đầu, điển cố được sử dụng gần như toàn bộ là điển cố gốc Hán. Đó là những điển cố có nguồn gốc từ trong lịch sử, văn hóa, văn học Trung Hoa thời cổ được các nhà văn nước ta tiếp thu, học hỏi, vận dụng một cách có chọn lọc. Hầu hết điển cố gốc Hán trong văn học trung đại nước ta giai đoạn đầu là các điển nhân danh, địa danh, điển kinh sách, điển thơ ca được sử dụng phổ biến trong văn học Trung Hoa. Chẳng hạn:

– Trong bài thơ Thuật hoài, Phạm Ngũ Lão sử dụng điển nhân danh “Vũ Hầu” trong câu Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu (Hổ thẹn khi nghe nhân gian kể chuyện Vũ Hầu). Vũ Hầu tức Gia Cát Lượng, tự Khổng Minh, hiệu Ngọa Long tiên sinh, nhà chính trị kiệt xuất thời Tam quốc. Ông có công lớn đối với nhà Thục nên được phong tước hầu.

– Trong bài phú Ngọc tỉnh liên phú, Mạc Đĩnh Chi dùng điển địa danh “Tương phố” (bến sông Tương) trong câu Vọng mỹ nhân hề Tương phố (bến sông Tương, ngóng người đẹp). Điển này lấy tích con sông (Tương Giang) nơi hai bà phi là Nga Hoàng và Nữ Anh ngồi khóc vua Thuấn đã mất, nước mắt rơi xuống mọc lên một giống trúc rất đẹp, gọi là Tương phi trúc.

– Trong bài thơ Quốc tộ, Pháp Thuận thiền sư dùng điển kinh sách “vô vi” trong câu: Vô vi cư điện các/ Xứ xứ tức đao binh (nơi cung điện thực hiện chính sách “vô vi”/ Nơi nơi hết đao binh). Điển này bắt nguồn từ thuyết “vô vi” mà Lão Tử chủ trương với nội dung không làm điều trái tự nhiên, can thiệp vào tự nhiên.

Nhìn chung, văn học trung đại giai đoạn đầu được viết bằng chữ Hán với các thể loại vay mượn từ văn học Trung Hoa. Điển cố gốc Hán được sử dụng với số lượng lớn, gần như giữ vị trí độc tôn đã phản ánh phần nào đặc điểm chịu sự ảnh hưởng trên hầu hết các phương diện từ văn học Trung Hoa của văn học viết nước ta ở thời kỳ đầu. Từ ngôn ngữ, thể loại đến cảm hứng, đề tài, chất liệu…, văn học viết trong chặng đường đầu tiên, vì nhiều lý do khác nhau, phải vay mượn từ văn học Trung Hoa. Điển cố gốc Hán được sử dụng phổ biến và chiếm vai trò độc tôn trong giai đoạn văn học này là hiện tượng tất yếu.

Điển cố nội sinh với văn học trung đại giai đoạn sau

Ở giai đoạn sau của văn học trung đại nước ta, bên cạnh chữ Hán, chữ Nôm ngày càng được ưu tiên lựa chọn trong sáng tác; bên cạnh các thể loại vay mượn (thơ luật, phú, văn học hành chức…), các thể loại nội sinh (truyện thơ, ngâm khúc, hát nói) càng được nhiều nhà văn sử dụng. Trên đại thể, thành tựu chính của văn học giai đoạn này thuộc về bộ phận văn học chữ Nôm với các thể loại có nguồn gốc từ dân tộc.

*

Xem Thêm : Trào lưu lãng mạn trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 – TẠP CHÍ TAO ĐÀN

Tranh minh họa điển cố. (nguồn: baomoi.com)

Xem Thêm : Câu Hỏi Đố Vui Văn Học Tháng 3, Đố Vui Văn Học

Cũng trong văn học giai đoạn này, bên cạnh điển cố gốc Hán, điển cố nội sinh xuất hiện nhiều hơn và được ưu tiên dẫn dụng với số lượng ngày càng tăng. Đó là những điển cố có nguồn gốc từ trong lịch sử, văn hóa, văn học của chính dân tộc ta, được các nhà văn chủ động tìm về học hỏi, sáng tạo và sử dụng trong tác phẩm của mình. Chẳng hạn:

– Trong bài Trách nhân tình, Nguyễn Công Trứ dùng hai điển nhân danh là “Kim Trọng”, “Thúy Kiều”, trong câu: Trách mình chưa phải là Kim Trọng/ Mà đó đòi mang nợ Thúy Kiều. Kim Trọng và Thúy Kiều là hai nhân vật chính trong kiệt tác Truyện Kiều, tác phẩm đỉnh cao của nền văn học cổ điển Việt Nam.

– Trong bài Thầy đồ ve gái góa, Nguyễn Khuyến sử dụng hai điển nội sinh có nguồn gốc văn học dân gian là “bắc cầu” và “cầm kính”, trong câu: Bắc cầu, câu cũ không hờ hững/ Cầm kính, tình xưa vẫn đắng cay. Điển “bắc cầu” lấy ý từ bài ca dao: Muốn sang thì bắc cầu kiều/ Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy. Điển “cầm kính” bắt nguồn từ bài ca dao: Trách người quân tử vô tình/ Cầm gương (kính) mà để bên mình chẳng soi.

– Trong bài Đề Ngọc Sơn đình, Nguyễn Thượng Hiền dùng điển nhân danh có nguồn gốc lịch sử dân tộc là “Phương Đình”, trong câu: Nhất đại Phương Đình bút/ Thiên thu Kiếm thủy ba (Một đời nét bút của Phương Đình/ Ngàn năm sóng nước hồ Hoàn Kiếm). Phương Đình tức Nguyễn Văn Siêu, nhà thơ Việt Nam ở thế kỷ XIX, nổi tiếng văn hay ch
ữ đẹp, cùng với Cao Bá Quát được người đương thời xưng là “thần Siêu, thánh Quát”.

Có thể nói, việc tăng cường sử dụng điển cố nội sinh vào sáng tác đã phần nào phản ánh đặc điểm khước từ sự chịu ảnh hưởng thụ động văn học nước ngoài, tìm về với các giá trị nội sinh trong văn hóa dân tộc của văn học trung đại giai đoạn sau. Đặc điểm này thể hiện trên hầu hết các phương diện của văn học, từ đề tài, cảm hứng đến chữ viết, thể loại, kể cả nghệ thuật sử dụng điển cố. Hiện tượng tăng cường sử dụng điển cố nội sinh cũng phản ánh quy luật vận động, phát triển của văn học nước ta. Đó là sự vận động tự thân ở giai đoạn sau của nền văn học dân tộc, sau khi chịu ảnh hưởng, học hỏi từ văn học nước ngoài ở giai đoạn đầu.

Điển cố phương Tây với văn học giao thời

Văn học hiện đại Việt Nam ra đời và phát triển trong một bối cảnh hoàn toàn khác 10 thế kỷ văn học trước đó. Chữ quốc ngữ ra đời, báo chí và in ấn phát triển, sự tiếp xúc và chịu ảnh hưởng từ văn học phương Tây (chủ yếu là văn học Pháp) đem đến diện mạo hoàn toàn mới cho văn học, một số thể loại mới ra đời (tiểu thuyết, truyện ngắn hiện đại, kịch nói…), đội ngũ sáng tác và tầng lớp công chúng văn học mới được hình thành… Văn học Việt Nam giai đoạn này có những bước chuyển mình quan trọng để chuyển từ phạm trù trung đại sang hiện đại.

Trong văn học giai đoạn này, bên cạnh điển cố gốc Hán và điển cố nội sinh vẫn được tiếp tục sử dụng, có một bộ phận điển cố hoàn toàn mới xuất hiện: Điển cố phương Tây. Đó là những điển cố có nguồn gốc từ lịch sử, văn hóa, văn học phương Tây (chủ yếu từ trong thần thoại Hy Lạp, Kinh thánh, các tác phẩm kinh điển của văn học phương Tây) được các nhà văn (chủ yếu là trí thức Tây học, tiếp xúc trực tiếp hoặc gián tiếp với văn học phương Tây) học hỏi, vận dụng một cách có chọn lọc vào trong sáng tác của mình. Nhiều điển cố phương Tây được đưa vào sáng tác ở thời kỳ này. Chẳng hạn:

– Trong bài thơ Hồn lìa khỏi xác, Hàn Mặc Tử sử dụng điển “ngày tận thế” lấy từ trong Kinh thánh của đạo Thiên Chúa, trong câu: Ngày tận thế là ngày tán loạn/ Xác của hồn, hồn của xác y nguyên. Điển “ngày tận thế” được nhắc nhiều lần trong Kinh thánh, được miêu tả cụ thể trong sách Khải huyền (tác phẩm xếp cuối cùng trong Kinh thánh). Trong giáo lý của đạo Thiên Chúa, đó là ngày cuối cùng của nhân loại, ngày Chúa Trời trở lại để xét đoán thế gian tội lỗi.

Xem thêm: Top 55 Đề Kiểm Tra 1 Tiết Hóa 11 Chương 1 Tự Luận Hóa Học 11 Lần 1

– Trong bài thơ Màu sương linh giác, Đinh Hùng dùng điển “Thiên đường”, ở câu: Chết đi ta phá Thiên đường/ Kinh động trái tim Thần nữ. Trong bài Giản dị, Hồ Dzếnh cũng sử dụng điển này, trong câu: Đừng mong ước cả Thiên đường/ Hãy xin lấy nửa tấc vườn vắng hoa. Điển “Thiên đường” có nguồn gốc từ Kinh thánh. Cũng như Niết bàn trong đạo Phật, “Thiên đường” trong đạo Thiên Chúa là cõi tốt đẹp bên ngoài trần gian mà người ta ao ước khi chết đi, linh hồn sẽ được đến trú ngụ ở đó.

– Trong bài Thánh nữ đồng trinh Maria, Hàn Mặc Tử sử dụng nhiều điển nhân danh như “Maria”, “Tổng lãnh thiên thần”, “Đấng Tinh truyền thanh vẹn”, “Nữ Đồng Trinh”, “Thiên Chúa Gabriel”… Chẳng hạn như trong câu: Hỡi Sứ thần Thiên Chúa Gabriel/ Khi người xuống truyền tin cho Thánh Nữ… Là Nguồn Trăng yêu mến Nữ Đồng Trinh. Những điển này đều là các nhân vật trong Kinh thánh. Maria là mẹ của Chúa Ky Tô, Gabriel là một trong các Tổng lãnh thiên thần trong hàng ngũ các thiên sứ của Chúa.

Có thể khẳng định, việc sử dụng nhiều điển cố phương Tây đã phần nào phản ánh một trong những đặc trưng cơ bản của văn học Việt Nam giai đoạn giao thời là chịu ảnh hưởng khá đậm nét của văn học phương Tây để chuyển mình sang hệ hình hiện đại. Việc sử dụng nhiều điển cố phương Tây cũng phản ánh quy luật động phát triển của văn học nước ta: từ dân tộc bước ra thế giới; văn học hội nhập, học hỏi và hòa mình vào quỹ đạo phát triển chung của văn học thế giới.

Điển cố “từ hóa” với văn học hiện đại

Từ sau năm 1932, đặc biệt là sau năm 1945, văn học Việt Nam chuyển mình hoàn toàn sang phạm trù hiện đại. Văn học phát triển một cách đa dạng với nhiều khuynh hướng khác nhau, đạt được những thành tựu to lớn trên nhiều phương diện khác nhau.

Xét trên lịch sử sử dụng điển cố, trong văn học hiện đại, tưởng như “món đồ cổ” điển cố sẽ bị lãng quên thì ngược lại, điển cố vẫn được sử dụng thường xuyên, có chủ đích và mang đến nhiều giá trị thẩm mỹ độc đáo cho văn học. Dĩ nhiên, không phải mọi điển cố trong văn học trước đó được sử dụng lại. Những điển cố cầu kỳ, phức tạp, hóc hiểm, mang nội dung xa lạ với sự văn hóa và tâm thức thẩm mỹ của người Việt đều bị đào thải. Trong khi đó, những điển cố “từ hóa” vẫn tiếp tục được nhiều người dẫn dụng, không chỉ trong văn chương mà còn cả trong ngôn ngữ sinh hoạt, báo chí, âm nhạc…

*

Xem Thêm : Trào lưu lãng mạn trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 – TẠP CHÍ TAO ĐÀN

Tranh minh họa điển cố. (nguồn: baomoi.com)

Chúng tôi sử dụng khái niệm “từ hóa” để chỉ những điển cố có khuynh hướng bị “từ hóa”, đánh mất dần tư cách điển cố, dần trở thành những từ (ngữ) thông dụng trong đời sống ngôn ngữ và văn chương. Đó là những điển cố được sàng lọc theo thời gian, phá vỡ quy tắc giải mã điển cố (không cần quan tâm đến câu chuyện bên trong vẫn hiểu được hàm nghĩa của điển), có nội dung gần gũi, dễ hiểu, được sử dụng phổ biến trong đời sống hằng ngày, được các nhà văn sử dụng như một thói quen dùng từ.

Trong văn học hiện đại, điểncố “từ hóa” gồm có cả điển cố gốc Hán, điển cố phương Tây và điển cố nội sinh.

– Điển cố gốc Hán được “từ hóa” có các điển như “dã tràng”, “mắt xanh”, &l
dquo;tào khang”, “dâu bể”, “tri âm”, “mây mưa”, “vàng đá”, “trúc mai”, “tạo hóa”, “gương vỡ lại lành”, “Vũ môn”, “Mạnh Thường Quân”, “Lưu Linh”, “chị Hằng”, “Ngưu Lang Chức Nữ”…

Chẳng hạn, trong bài thơ Ba mươi năm đời ta có Đảng, Tố Hữu dùng điển “gương vỡ lại lành”, trong câu: Đời ta gương vỡ lại lành/ Cây khô cây lại đâm cành nở hoa. Điển này bắt nguồn từ điển “phá kính trùng viên” trong văn học Trung Hoa.

– Điển cố phương Tây được “từ hóa” có các điển như “gót chân Asin”, “vua Miđat có tai lừa”, “con ngựa thành Tơroa”, “mặc cảm Ơđip”, “tấm thảm của Pênêlôp”, “vòng nguyệt quế”, “cán cân công lý”, “cơn đại hồng thủy”, “Êva”, “trái cấm”, “địa đàng”, “thiên đàng”, “buổi sáng thế”, “miền đất hứa”, “Giuđa”…

Chẳng hạn, trong tiểu thuyết Bão biển, Chu Văn dùng điển “Giuđa”: “Quân Giuđa là ai ? Ai theo quân Giuđa”. Điển này có nguồn gốc từ trong Kinh thánh (tân ước), là tên của một tông đồ phản Chúa, được dùng trong văn chương với ý nghĩa chỉ kẻ phản bội.

Hoặc như, trong chương 7 tiểu thuyết Giải trình của biển, Tô Hoài vận dụng điển “cán cân công lý”, trong câu: “Thể hiện rõ sự tắc trách của người giữ cán cân công lý. Vì thế nó không thể nhân danh bất cứ ai”. Điển này bắt nguồn từ thần thoại Hy Lạp, lấy tích thần Thêmis làm việc với hình ảnh cán cân trên tay để cho công lý được thực thi khắp mọi nơi. Trong văn học cũng như đời sống, điển này có ý nghĩa chỉ cho sự công bằng, công lý ở đời.

– Điển cố nội sinh được “từ hóa” có các điển như “Chương Dương”, “Bạch Đằng”, “cô Tấm”, “Thạch Sanh”, “rét nàng Bân”, “Thánh Gióng”, “Trương Chi”…

Chẳng hạn, trong bài thơ Quê hương, Nguyễn Bính viết: Quê hương tôi có cây bầu, cây nhị / Tiếng đàn kêu tích tịch tình tang… Có cô Tấm náu mình trong quả thị; trong Nghĩ thêm về Nguyễn, Chế Lan Viên viết: Anh nuôi hồn thơ như cô Tấm nuôi trong giếng sâu u tối / Cái bống con nôm na mánh qué chẳng ai nhìn. Cả hai tác giả đều sử dụng điển cố nội sinh “cô Tấm”. Điển này bắt nguồn trong văn học dân gian, là tên một nhân vật trong truyện cổ tích Tấm Cám, được sử dụng trong văn học với ý nghĩa chỉ cho những người con gái thảo hiền.

Hoặc như, trong bài Bài ca xuân 68, Tố Hữu viết: Lịch sử hôn anh chàng trai chân đất / Sống hiên ngang, bất khuất trên đời / Như Thạch Sanh của thế kỷ hai mươi; trong bài Em ơi… Ba Lan, nhà thơ viết: Hồng quân cứu Varen xinh đẹp / Như Thạch Sanh đánh ó cứu nàng tiên. Trong hai bài thơ này, Tố Hữu sử dụng điển “Thạch Sanh”. Điển này bắt nguồn từ hình tượng nhân vật Thạch Sanh trong truyện cổ tích cùng tên, được sử dụng với ý nghĩa những anh hùng của thời đại.

Có thể nói, lớp điển cố “từ hóa” trong văn học Việt Nam hiện đại đã phản ánh phần nào sự phát triển đa dạng, đổi mới trong sự kế thừa của văn học. Văn học hiện đại kế thừa, học hỏi, tiếp thu tinh hoa của văn học truyền thống để vươn tới những giá trị mới. Những giá trị vững bền của truyền thống văn học không hề bị mất đi mà được kế thừa, phát triển ở những dạng thức mới trong văn học hiện đại. Điển cố “từ hóa” là một biểu hiện như thế. Biểu hiện này minh chứng cho sự vận động phát triển có tính quy luật của văn học Việt Nam: Tiếp thu tinh hoa của văn hóa nhân loại, kế thừa truyền thống văn hóa của dân tộc, tự thân vận động, đổi mới chính mình để vươn ra hòa nhập vào quỹ đạo phát triển chung của văn học thế giới.

Cũng cần phải nói thêm rằng, nếu như trong văn học trung đại, điển cố được xem là một mã ký hiệu thì trong văn học hiện đại, điển cố chỉ còn được xem như một từ (ngữ) bình thường. Nếu như trong văn học trung đại, điển cố được dùng với nguyên tắc ước lệ, tiếp nhận phải thông qua con đường giải mã điển cố thì khi vào văn học hiện đại, tính chất ước lệ của điển bị giảm đi rõ rệt, người đọc tiếp nhận điển cố một cách trực diện mà gần như không cần phải lần về những chuyện xưa, tích cũ để giải mã chúng. Do đó, không phải điển cố nào cũng tồn tại được trong văn học hiện đại. Những điển cố xa lạ, hiểm hóc lập tức bị đào thải. Chỉ những điển có xu hướng bị “từ hóa” triệt để mới được tiếp tục sử dụng. Đây vừa là nguyên tắc tồn tại, vừa là biểu hiện của sức sống bền bỉ của điển cố trong thời hiện đại.

Xem thêm: Đề Cương Ôn Tập Toán 7 Học Kì 1 Violet, Tài Liệu Đề Cương Ôn Tập Toán 9 Học Kì 1 Violet

III. Kết luận

Điển cố là một biện pháp tu từ đặc biệt được sử dụng xuyên suốt trong tiến trình văn học dân tộc, từ văn học dân gian đến văn học hiện đại. Trên cái nhìn lịch đại, lịch sử vay mượn, hình thành, sử dụng, đào thải điển cố đã phần nào phản ánh tiến trình vận động, phát triển của nền văn học viết nước ta. Ở văn học trung đại giai đoạn đầu vốn chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn học Trung Hoa, nổi bật là điển cố gốc Hán. Ở văn học trung đại giai đoạn sau với khuynh hướng tìm về giá trị tự thân của văn hóa dân tộc, điển cố nội sinh được tăng cường sử dụng. Ở văn học giao thời, dấu ấn từ sự ảnh hưởng của văn học phương Tây được thể hiện phần nào qua lớp điển cố phương Tây được các nhà văn sử dụng. Sang văn học hiện đại, đặc điểm kế thừa giá trị truyền thống để phát triển một cách đa dạng, vươn ra hội nhập với văn học thế giới được thể hiện phần nào qua lớp điển cố “từ hóa” được đưa vào các sáng tác. Như vậy, dù chỉ là một phương diện rất nhỏ, nhưng lịch sử sử dụng điển cố đã phản ánh khá sinh động, thú vị những nét cơ bản nhất trong tiến trình vận động, phát triển của văn học dân tộc.

Nguồn: https://truongxaydunghcm.edu.vn
Danh mục: Văn Học

Related Articles

Back to top button