Phân tích bài thơ Cảm xúc mùa thu hay nhất (7 mẫu) – Văn 10

Phân tích tác phẩm cảm xúc mùa thu

Phân tích tình cảm mùa thu của phu nhân gồm dàn ý chi tiết với 7 bài văn mẫu hay. Qua 7 bài văn mẫu này, các em học sinh lớp 10 sẽ có thêm nhiều gợi ý tham khảo để nâng cao kỹ năng làm bài văn phân tích.

Phân tích cảm xúc mùa thu ta thấy tâm hồn nhà thơ nhạy cảm, rung động mạnh mẽ trước cảnh vật. tấm lòng của phu nhân đã dành trọn cho quê hương, cũng qua bài thơ, tư tưởng “yêu nước yêu đời” càng thể hiện rõ. vậy đây là 7 bài thơ phân tích cảm xúc mùa thu, mời các bạn cùng theo dõi tại đây.

Tóm tắt Phân tích Bài luận Mùa thu

1. mở đầu

  • Giới thiệu tác giả, đề tài gia đình và ảnh hưởng của ông đối với nền văn học nước nhà:
  • làm phủ (712-770). ông có hàng nghìn bài thơ phong phú và sâu sắc, chủ yếu nói về ảnh hưởng của thời đại đối với cuộc sống của con người và đối với chính bản thân ông.
  • giới thiệu bài thơ “cảm xúc mùa thu” .ren, hỗn mang.

>

2. nội dung bài đăng

* bài thơ được chia thành hai phần:

– bốn dòng đầu của bài thơ tác giả tả một khung cảnh mùa thu ảm đạm và ảm đạm.

  • “Phong” người ta nghĩ ngay đến mùa thu vì cứ đến mùa thu, rừng phong lại chuyển sang màu đỏ, thể hiện sự chia ly và buồn bã.
  • Màn sương trắng dày đặc khiến cả khu rừng phong càng thêm ảm đạm và lạnh lẽo. . .
  • “vu sơn, vu giang” là một con hẻm hiểm trở, hùng vĩ, vách đá dựng đứng, khó có ánh sáng mặt trời chiếu vào lòng sông.
  • a Qua hai câu đầu nói về cảnh núi rừng mùa thu, sự hoang vắng, hiu quạnh, buồn bã lan tỏa khắp không gian hoàn toàn khác với cảnh thu của thơ ca truyền thống.

– hai câu thơ tiếp theo

  • hình ảnh ngược lại: sóng bắn lên phía sau bầu trời, sau đó mây ập xuống đất, từ dưới lên trên, rồi từ trên xuống dưới.
  • chuyển động mạnh tạo ra hình ảnh hùng vĩ và bi tráng.

– bốn dòng mô tả những cảnh cụ thể đặt cạnh nhau tạo nên một hình ảnh mùa thu hùng vĩ, vừa trầm lắng, vừa dữ dội và hùng vĩ.

– bốn câu thơ sau thể hiện nỗi nhớ quê hương, tình cảm dân tộc.

  • Hoa cúc là loài hoa của mùa thu, là biểu tượng của niềm vui và vẻ đẹp, nhưng nhìn nó lại rơi nước mắt, gợi lên nỗi buồn sâu thẳm của nhà thơ, nhìn hoa cúc gợi ta nhớ đến mùa thu trên quê hương mình.
  • chữ “lệ” trong bài thơ khó phân biệt là nước mắt của người hay của hoa.
  • “thử chu” con thuyền lẻ loi, khi thấy con thuyền lòng tác giả càng xót xa bao nhiêu. tác giả trỗi dậy, càng khao khát thành phố quê hương mình.
  • hình ảnh con tàu lênh đênh và lang thang là phương tiện duy nhất để nhà thơ gửi gắm khát vọng trở về thành phố quê hương, “tấm lòng của cũ ”là rất đặc biệt. nó đặc biệt như thắt chặt lòng người với quê hương nhờ con tàu trôi về quê hương.
  • cảnh người ta giặt áo cũ, tiếng trống đập vải rộn ràng trên sông để chuẩn bị. cho mùa đông sắp tới.

– sử dụng không gian của chiều dài, chiều rộng, nửa chiều cao, chiều sâu, từ thấp đến cao và từ cao xuống thấp và đặc biệt ẩn dụ, đối xứng chặt chẽ. chính tả các cảnh ngụ ngôn, ngôn ngữ tình cảm, sử dụng quá khứ để nói về hiện tại.

3. kết thúc

bài thơ “cảm xúc về mùa thu” là một bài thơ rất hay và ý nghĩa. bài thơ là nỗi nhớ quê hương của tác giả khi xa quê trong thời loạn lạc. bài thơ nhắc nhở chúng ta thêm yêu quê hương đất nước, trân trọng nơi đã sinh ra mình.

phân tích tâm lý mùa thu: mẫu 1

Thơ Đường vốn khắt khe về niêm, luật và thiết. nhưng những quy tắc nghiêm ngặt đó không ràng buộc các hiền nhân như du fu. Dưới ngòi bút của nhà thơ, bài thơ tuân thủ nghiêm ngặt các quy luật, bay bổng tự do, tạo nên vẻ đẹp đa dạng như vẻ đẹp của một viên ngọc trai được soi rọi từ nhiều hướng khác nhau. bộ sưu tập không nằm ngoài những đặc điểm trên

Về phần miêu tả chung, tuyển tập có bố cục gồm hai phần rõ ràng: bốn câu đầu tả cảnh, núi sông của miền sơn cước, ngược dòng trường giang, nơi phủ mất vì đâu. chạy giặc loc son. bốn câu dưới đây miêu tả tính cách và tình yêu của người lữ hành bị đày ải. cảnh ấy và tình này tạo nên sự thống nhất của bài thơ.

Bốn dòng đầu của bài thơ tả cảnh mùa thu. Đầu tiên, đây là cảnh mùa thu của một nơi nào đó. Được biết, đây là đoạn văn tả cảnh vùng Kuen Châu ở thượng nguồn sông Trường Giang, không chỉ ở các địa danh Vu Sơn, Vu Giáp được nhắc đến ở câu thứ hai, mà còn là những cảnh sắc tiêu biểu. . bởi vì khu vực này được mô tả trong bài báo. đó là cảnh rừng phong phủ sương trắng, cảnh vách núi dựng đứng khi mây mù, núi cao hiểm trở.

một bức tranh toàn cảnh hùng vĩ nhưng âm u hiện lên qua ngòi bút của Đỗ Phủ. bức tranh này có từng lớp chặt chẽ, dần dần theo bước chân của con người. thoạt đầu, đó là khung cảnh mù sương của một rừng phong trắng xóa. Vượt qua khu rừng này, vu sơn, vu quy hiện lên qua dàn ý khái quát ở câu thơ thứ hai. câu thứ ba và câu thứ tư tả hai cảnh tiêu biểu nhất là núi vu và kẽm vu. do đó, hình ảnh có tầm nhìn bao quát và cận cảnh, đầy đủ và chi tiết, thể hiện lối viết điêu luyện và linh hoạt.

Thần thái của bộ ảnh chính là cảm xúc mà tác giả gửi gắm trong từng nét vẽ chạm đến trái tim người đọc. câu thơ đầu có bảy chữ, lại có hai chi tiết gợi tả, mỗi chi tiết đều gợi lên nỗi buồn man mác, từ cái lạnh lẽo của sương trắng bao trùm khắp nơi, từ cái tang tóc của rừng phong. và hơi thở yếu ớt của mùa thu ở câu thứ hai làm tăng thêm nỗi buồn bao trùm ở câu trước.

hai dòng, ba đoạn miêu tả chi tiết: nỗi buồn càng ngày càng sâu rộng, khiến cảnh vật hùng vĩ mà buồn, bí ẩn mà u uất. đến hai câu ba và câu bốn, cảnh vừa có sự mạch lạc với hai câu trước vừa có sự phát triển. trong khi đặc tả núi vu, kẽm vu, mỗi nơi tác giả tả một chi tiết nhưng cảnh sinh động hơn rất nhiều. những con sóng cao ba, lãng mạn và dũng cảm (nhảy lên trời), khi chúng hút sâu vào chiều cao sâu của vũ trụ kẽm và tạo ra một chuyển động dữ dội và mạnh mẽ.

Cảnh mây “rơi xuống đất” không chỉ miêu tả độ cao của cửa ải trong núi vu mà còn thể hiện sự giận dữ của mây và núi. sông trời, mây núi không còn ở trạng thái tĩnh lặng, u uất như cảnh hai câu thơ trước mà chuyển động với nội lực lớn, tạo nên vẻ đẹp hùng vĩ cho bức tranh. hai cảnh này bổ sung cho nhau, tạo nên một đơn vị cảm xúc đa dạng phát ra từ hình ảnh: u uất và bi thương. đó cũng là phong cách thơ của Đỗ Phủ cuối đời.

Đứng trước cảnh ấy, làm sao một người đa cảm như phu thê lại không nhớ quê? chính từ sự vận động nội tâm đó mà bốn câu thơ tiếp theo hiện ra một cách tự nhiên và logic. bốn câu thơ tiếp theo tả tình nhưng không xa cảnh, tình và cảnh hòa quyện vào nhau. hai câu 5, 6 diễn tả sinh động nỗi nhớ bằng nhiều thủ pháp sinh động, trong bảy chữ của câu 5 thống nhất giữa tình và cảnh: hoa cúc nở mà như cành hoa rơi lệ, bập bùng. , hiện tại và quá khứ dường như được kết nối với nhau: “giọt nước mắt hôm trước” bỗng rơi cùng giọt nước mắt hôm nay.

trục liên kết tạo nên bản sắc ấy là hai từ ghép đôi với nhiều ẩn ý, ​​làm cho hình ảnh bông cúc và giọt nước mắt trở nên đa nghĩa, đồng nghĩa với việc hình ảnh con thuyền trong câu 6 cũng được tạo nên. cảnh như hình ảnh trong câu 5. Từ “co” còn tạo nên một ẩn ý: vừa để cột chặt con đò lẻ loi nơi nhà thơ ở lại đây, vừa để buộc lại, gói ghém nỗi nhớ quê hương.

Những cảm xúc dâng trào được miêu tả trong câu 5 và 6 dường như được miêu tả trực tiếp và nâng cao hơn ở hai câu cuối. nhưng ở đây đoạn thơ đột ngột chuyển từ tả tình sang tả cảnh đời thường. cảnh người dân tất bật may quần áo rét, giặt quần áo cũ dường như hai cảnh này không hợp với tình kia, như mất hết ý thơ. nhưng không vì thế mà đây là phương pháp dồn nén cảm xúc bên trong hình ảnh để câu chữ, ý thơ sâu lắng hơn, có sức rung động mạnh mẽ hơn trong lòng người đọc.

Tiếng đánh áo là một âm thanh rất gợi cảm trong thơ cổ Trung Quốc, gợi nhớ về những người thân yêu đã đi xa, thể hiện nỗi nhớ nhung da diết. giáo phận bach thu tả tấm lòng thiếu nữ, trong đêm tháng tám, tiếng vồ vồ gảy tơ mà “sáng mai sợ đầu bạc”. do đó, sự xuất hiện của tiếng chày trong buổi chiều tà tạo nên âm vang xuyên suốt bài thơ.

nỗi nhớ quê hương chân thành của phu nhân trong một mùa thu hỗn độn được bộc lộ trong bài thơ này không chỉ là tâm trạng của một người. đó là nỗi lòng của trăm họ tang thương, cuộc chiến triền miên đằng sau cảnh loạn lạc của tang gia, phải rời bỏ quê hương, phiêu bạt nơi góc biển, chân trời.

phân tích tâm lý mùa thu: mẫu 2

cuộc đời của phu nhân trải qua nhiều giai đoạn khác nhau: những năm tháng rong ruổi vô tư ở tuổi trẻ, những năm tháng gia đình sa sút, những năm tháng mòn mỏi chờ đợi sau khi thi trượt ở kinh đô Chang’an, những năm tháng bị ném vào vòng xoáy của thời gian trong suốt chiến tranh hòa bình lịch sử (755 – 763), những năm tháng cuối đời trôi dạt trên các tỉnh miền Tây Nam bộ.

khi chiến tranh vừa kết thúc, do phu nhân định xuôi theo sông Dương Tử về phía đông để tìm đường trở về quê hương ở phía bắc.

Năm 765, Đô phủ rời thành Đô, thủ phủ của tỉnh Tứ Xuyên, đưa gia đình đi du ngoạn một vài nơi, rồi trở về tạm trú tại Quy nhon. tuyển tập tám khúc nổi tiếng về cảm xúc mùa thu được sáng tác tại đây vào năm 766, chỉ bốn năm trước khi nhà thơ qua đời.

chu trình thơ là một tổng thể trong đó cảm xúc mùa thu số 1, bài chọn lọc, là “chương trình sáng tạo” của toàn bộ bài thơ. Nhà phê bình nổi tiếng Kim Thành Thản nhận xét về sự chặt chẽ của bố cục bài thơ và vị trí cao của bài thơ Cảm xúc mùa thu không. 1 như sau: “nếu bạn nói là tức thì mọi bài hát sẽ bị hỏng, nếu bạn nói nó bị hỏng thì mọi bài hát sẽ phá vỡ bài viết tức thì. Bạn không thể thay đổi vị trí của bài viết, thêm hoặc xóa một bài cũng không được .. .

tất cả những bài thơ này đều lấy đầu tiên làm dàn ý, vì nó đề cập đến cảnh sinh hoạt của các tiên nữ lúc bấy giờ. đó là mùa thu ở tây cung (tây vệ) quỳ, dân chúng náo nhiệt. câu đầu trong bảy đoạn sâu nhất được kết như áo có cổ, như hoa có cành, như báo hiệu trăm vạn quân từ trung quân đến. ”

Chúng ta chỉ có thể thấy hết ý nghĩa và vẻ đẹp của bài ca dao mùa thu số 1 khi xếp nó vào chùm thơ; tuy nhiên, vì là bài mang tính chất “cương”, “cương”, mặt khác, bảy bài còn lại, nếu “nói thi liên tiếp”, tức là mỗi bài. tương đối độc lập. vì vậy chúng tôi vẫn có thể và thực sự có nhiều người xem xét nó một cách tổng thể.

cũng như nhiều bài thơ tang tóc nổi tiếng khác, bài thơ cảm xúc mùa thu thứ nhất chỉ có thể được giải thích một cách hợp lý nếu tác phẩm được chia thành hai phần: nửa trên miêu tả cơ bản cảnh thơ trong tiết xuân và nửa sau. tiếp theo, về cơ bản là tình yêu: cảm xúc của nhà thơ trước cảnh mùa thu ở bài thơ tạm biệt.

ở một vài câu đầu (tức là “liên kết đầu”, “liên kết thứ nhất”, chúng ta thường gọi là hai câu kết), bản dịch thơ đã tái hiện lại cảnh mùa thu buồn, nhưng trong nguyên tác, không khí vẫn rất bi thương. .nhiều protein. ở câu đầu, sương không được “rải”, mà phải đủ dày để tàn phá, làm hư hại cả rừng phong; rừng phong không phải là một danh từ làm trạng ngữ chỉ địa danh, mà là một vật thể bị sương làm tan nát một cách tàn nhẫn.

trong câu thứ hai của bản dịch, từ “ổ” cùng với từ “huy” chỉ lột tả được phần nào tinh thần của hai từ “tiều sâm” (u ám, u ám) trong nguyên tác; từ “ngàn thanh xuân” thay thế cho hai tên riêng khiến bản dịch dễ hiểu nhưng lại làm mờ đi bản sắc của cảnh sắc vùng Quyển. hãy đọc đoạn văn sau đây về trời và sông trong sách nước của lịch taoyuan trong sáu triều đại: “Toàn bộ khu vực tam giác (vu giap, cu duong giap, tây lang giap) dài bảy trăm dặm, với những ngọn núi mà Họ chạy trong hai. các ngân hàng. , không có không gian trống.

những vách đá cheo leo bầu trời, không nhìn thấy ánh sáng mặt trời cũng như ánh sáng trắng … mỗi khi trời quang mây tạnh, trong sương sớm, nơi rừng vắng lạnh lẽo, trên đỉnh thường có một khu vườn, tiếng hú. , âm thanh bi tráng khác thường, dàn trống truyền mãi âm hưởng bi tráng. chính vì vậy mà dân chài có câu: “tam đồng tam giáp vu đồng – viên minh tam thanh lê tri thương” (ba kẽm đông tứ giáp, kẽm vu dài nhất, thành vượn kêu ba lần) đến nỗi nước mắt đầm đìa áo) ”.

bình thường, ngay cả khi bầu trời quang đãng, cảnh vật vẫn tối tăm và u ám; buổi chiều mùa thu, trời nên tối và ảm đạm; Qua lăng kính của nhà thơ, thật u ám và u ám! nếu ở câu đầu còn chút ánh sáng, còn có sự tương phản màu trắng – đỏ giữa sương chiều mùa thu và rừng phong bao la, thì vạn vật nơi đây như chìm vào bóng tối… thì hai câu thơ sau (tức “second link”, “chin joint”, chúng ta vẫn quen gọi hai câu thực tế), chỉ cần đọc nó, nó dường như mở ra một góc nhìn rộng mở hơn:

<3

Xem thêm: Nhà văn Đoàn Giỏi: Tiểu sử, sự nghiệp và những tác phẩm nổi tiếng

quả ở đây ngoài bầu không khí trong mây còn có phong cảnh hùng vĩ. Vẻ uy nghiêm là một trong những nét tiêu biểu của cảnh sông núi quỳ, mặt khác cũng phản ánh một nét trong tâm hồn cao cả của Đỗ Phủ: dù đau đớn tột cùng, nhà thơ vẫn ấp ủ ý chí vươn lên. tuy vẫn được vẽ nên bằng bút pháp ngắt câu quen thuộc của thơ Đường, nhưng thiên nhiên ở đây không phải là những đường nét mỏng manh, yếu ớt mà bao quát, vững chãi, tạo nên một bức tranh toàn cảnh tráng lệ.

Tuy nhiên, nếu đọc kỹ, bạn sẽ thấy ngay ở đây, sự bi thương vẫn lấn át mặt hoành tráng. Hãy thử tưởng tượng, không gian dành riêng cho con người chật hẹp đến nhường nào, giữa sóng chạm trời và mây rơi xuống đất sẽ ngột ngạt và bất an đến nhường nào! các từ “rùng mình” và “đùn ra” trong bản dịch đã chuyển tải thành công không khí kinh hoàng của khung cảnh, nhưng vẫn khó diễn đạt hết ý của nguyên tác, khiến người đọc có cảm giác sóng và mây cùng chuyển động. hướng đi. trong khi di chuyển theo hướng ngược lại (“extrude” chỉ được đẩy từ trong ra ngoài hoặc từ dưới tên).

cũng giống như nửa trên của bài, trọng tâm ở bốn câu đầu của bốn câu đầu cảm xúc mùa thu là tả cảnh, nhưng trong cảnh lại phảng phất nỗi buồn man mác (qua hình ảnh sắc trắng. sương mù, một rừng phòng mờ). cuối thu không khí mù sương) nhưng hỗn độn và dữ dội (qua hình ảnh đất trời quay cuồng, sóng vỗ, mây ầm ầm).

câu thứ năm và câu thứ sáu (tức “liên ba”, “an già”, ta thường gọi là hai câu kết) được coi là tiêu biểu cho tinh thần của cảm xúc mùa thu số 1 và ba từ. “định tâm” (ở câu 6) được ví như “mắt rồng”, tức là nơi tập trung linh hồn của mọi cảm xúc mùa thu thơ văn.

“co vien tam” (trái tim của đất nước cổ đại) trên hết là “nỗi nhớ về Lạc Dương (hà nam)”, quê hương của du fu, cũng là một trong những thành phố thịnh vượng nhất của triều đại phù tang. đặt trong ngữ cảnh, nó còn nói đến “nỗi nhớ trường an, kinh đô của triều đại tang gia” và nói chung hơn, nó cũng là một biểu hiện của tình yêu quê hương đất nước.

trong bảy bài thơ mùa thu trầm hùng sau đây, nhà thơ chỉ nói lên nỗi nhớ trường an và trường an trong những ngày thái bình thịnh trị, khi mà phu nhân vẫn còn là một vị quan trong triều đình cũng giống như trường an đương thời. , nơi “thiên biến vạn hóa”, nơi có những tranh chấp quyền lực giữa các thế lực phong kiến, quân phiệt với sự can thiệp của các thế lực ngoại bang.

Hai câu thơ này cũng được coi là bài thơ nổi tiếng (câu thơ, câu đối) nổi tiếng về thể loại thơ Đường tiêu biểu. ở đây, tác giả đã đồng nhất hóa nhiều sự vật, hiện tượng: tình và cảnh (nhìn bông cúc nở, tưởng chừng cánh hoa hé nở), hiện tại và quá khứ (giọt nước mắt hiện tại cũng là giọt lệ). gần quá khứ – hai năm qua, kể từ ngày rời kinh thành- và quá khứ xa xăm), sự vật và con người (dây buộc con tàu cũng là sợi dây gắn kết lòng người).

Đáng chú ý hơn là những đặc điểm nhận dạng có vẻ vô lý này có nguồn gốc thực tế sâu sắc. Trong chiến tranh, không chỉ con người bị hủy diệt (trong tám năm, dân số Trung Quốc chỉ bằng một phần ba), mà cả thiên nhiên cũng bị hủy diệt. Hình ảnh “giọt lệ” không một lần xuất hiện trong thơ Đỗ Phủ. một số hiểu từ tha (trong bản gốc) để chỉ ngày hôm sau, những ngày sắp tới, nhưng hầu hết lấy nó để chỉ ngày trước, những ngày đã qua.

Trước khung cảnh mùa thu buồn, những kỉ niệm đau thương của quá khứ đã dồn lại trong giây phút hiện tại và bay đi trên những bông hoa. Vì vậy, câu thơ dịch “khóm cúc trúc thêm giọt lệ xưa” của Nguyễn Công Trứ rất thành công. những giọt nước mắt đã rơi của nhà thơ trong hai năm qua chỉ là sự lặp lại, chồng lên những giọt nước mắt cũ. Trước chiến tranh, nhà thơ nghèo đã từng rơi nước mắt khi đứa con trai “yêu thương nhất” của mình chết đói giữa vụ mùa!

Con thuyền lẻ loi (co chu) là một ẩn dụ thích hợp không chỉ để chỉ bản chất lênh đênh, lẻ loi của nó, mà còn vì nó là phương tiện duy nhất để nhà thơ gửi gắm ước nguyện trở về quê hương, đó là địa chỉ đích thực của nơi ở, làm “nhà thuyền” của phu nhân trên đường đi đông tìm cơ hội trở về quê hương.

ở liên kết thứ tư (tức “liên kết”, chúng ta quen gọi là hai câu cuối), tác giả đã kết thúc bài thơ một cách bất ngờ. nhà thơ không trực tiếp bộc lộ cảm xúc chủ quan của mình như thường lệ mà diễn tả lại những cảnh sinh hoạt hiện thực: không khí nhộn nhịp người dân nô nức đi may áo đông (dòng 7) và giặt áo cũ (dòng 8) chuẩn bị cho mùa đông đang đến gần. Trong thơ cổ Trung Quốc, tiếng vồ vồ đập vào tấm vải, nhất là vào buổi chiều và đêm, là một âm thanh đặc biệt có sức gợi cảm lớn, không làm cho người xa xứ vui sướng mà càng làm cho họ thêm đau lòng.

cũng giống như ở phần cuối bài viết về thời trung học (đại học), ở phần cuối bài Cảm xúc mùa thu số 1, tác giả đã sử dụng phương thức miêu tả và tự sự để tự sự, nên đằng sau những câu thơ dường như thoáng mát và lắng đọng. dối trá nhiều nỗi thống khổ. bộc lộ cảm xúc trước cảnh thu là đề tài muôn thuở của thơ ca. Cảm xúc mùa thu số 1 là tác phẩm đặc sắc miêu tả những thành tựu nghệ thuật của du fu vào cuối đời.

Xem Thêm : Các Tác Phẩm Văn Học Trung đại Lớp 7

qua đây, ta không chỉ thấy được hình ảnh cụ thể của một buổi chiều mùa thu ở xứ sở, mà còn thấy được thân phận và tấm lòng của một con người cụ thể sống trong hoàn cảnh đó. những cuộc chiến tranh phong kiến ​​triền miên và những cuộc tranh giành quyền lực giữa các tập đoàn phong kiến ​​cuối thời kỳ tang thương đã đẩy người đàn ông vốn là quan triều đình ấy đến tận góc trời xa xôi và con người ấy ngày đêm chỉ còn lại một niềm hi vọng mờ mịt được trở về. về quê cũ.

có lẽ giấc mơ của du fu cũng là giấc mơ của nhiều người nghèo khổ lưu vong trong vương triều tang tóc. vì vậy, bài thơ tuy không trực tiếp miêu tả hoàn cảnh xã hội nhưng chứa chan tình cảm và có giá trị hiện thực sâu sắc.

phân tích bài thơ Cảm xúc mùa thu – văn mẫu 3

do phu nhân là nhà thơ kiệt xuất có nhiều đóng góp cho nền thơ ca Trung Quốc, ông là nhà thơ tiêu biểu, với số lượng tác phẩm để lại rất lớn. tấm lòng lương thiện, sự nhạy cảm với cuộc đời, những bài thơ ông viết đều mang tư tưởng yêu nước, hay còn gọi là “yêu nước yêu đời”, đồng thời phản ánh chân thực thời đại mà ông sống. với tâm hồn nghệ sĩ, những phút xao lòng với sự thay đổi của đất trời, thời tiết cũng khiến những dòng chữ tâm hồn như in trên trang giấy. thu hay còn gọi là “hứng thu” là một trong những bài thơ hay tiêu biểu cho hồn thơ Đỗ Phủ.

chủ đề thiên nhiên, đặc biệt là sự thay đổi không gian của đất trời thường làm nhà thơ băn khoăn. Mùa thu là mùa khiến tâm hồn người ta trở nên lãng đãng, tâm hồn thả mình theo gió, ta cũng thấy một thứ gì đó vừa man mác, vừa thấm đẫm hương sắc của đất trời bấp bênh. Cảm hứng mùa thu là hình ảnh mùa thu ảm đạm, thể hiện tâm trạng u uất của tác giả khi đất nước đang khủng hoảng, nỗi nhớ quê hương dâng lên ngột ngạt, nỗi xót xa cho thân phận nơi trần thế. khách từ quốc gia xuất xứ ..

ngọc đường thất tình phong lôi, vu sơn, vu giáp khí tiều sâm. giang gian ba thôn kiêm thien dung, cập nhật phong vân tục thổ. tung cuc bi khai tha nhat le co chu đã nhất trong hệ thống co vien tam. Hàn y xứ xích dao, bạch truật là thượng phẩm đinh lăng.

Sau khi được chép lại, bài thơ “cảm hứng mùa thu” dễ dàng thấm vào lòng người đọc. những cảnh vật lần lượt hiện ra trong bài thơ nhưng lại bao trùm lên một nỗi buồn khôn tả. cùng với những vần thơ nhẹ nhàng nhưng thấm đẫm tình cảm, Nguyễn Công Trứ đã đưa “cảm hứng mùa thu” đến gần hơn, đặc biệt là thể hiện những điều phu đã gửi gắm

rừng phong rải rác với những hạt móc sa, ………… trong thành phố trắng, tiếng chày vang vọng bóng ma quỷ.

(nguyen cong tru dich)

Có thể thấy rõ trong bài thơ, bốn câu đầu là “câu chủ đề” với mục đích gợi tả hình ảnh thiên nhiên bao la nhưng đượm buồn nơi núi rừng thượng nguồn Trường Giang.

Trong vài câu đầu, chỉ với vài nét chấm câu, tác giả đã phác họa được cái hồn của buổi tối mùa thu ở Quý Châu:

ngoc yêu phong thu lam, vu sơn, vu giáp khí tiêu sâm,

(Rừng phong rải rác có hạt, hàng ngàn cây si đứng riêng lẻ khi trời đổ)

có thể nhìn thấy hoặc cảm nhận được, tác giả đang đứng ở vị trí cao để quan sát toàn cảnh nơi đây. mọi thứ không chỉ được miêu tả có chiều sâu mà còn ở tầm mắt của tác giả, nhìn vào phương xa. điều đầu tiên hiện ra là hình ảnh rừng phong sương còn phủ kín tạo nên một khung cảnh u buồn, đặc biệt rừng phong càng tô đậm thêm sự chia ly khi lá phong chuyển sang màu đỏ, khi mùa thu đến. Những dấu hiệu như rừng phong hay những giọt sương, trong mắt tác giả cũng khiến người đọc phần nào thấy được mùa thu đang đến gần. Tuy hai dòng đầu của bài thơ là núi rừng nhưng lại có một điểm chung, đó là nỗi buồn cứ ngấm dần vào tác giả, nỗi buồn ấy lấn át cả tâm trạng và cảm xúc của tác giả khi ngâm thơ. trong sự hài hước như vậy, du biết câu sau:

giang hồ, ba lang và thien dung, leo ngược lên đỉnh van đất.

(Lưng trời gợn sóng thăm thẳm, mặt đất mây mù bao phủ.)

Nếu ở 2 câu đầu có hình ảnh rừng phong, cảnh vật từ trên cao nhìn xuống thì 2 câu tiếp theo tả cảnh vừa hùng vĩ vừa dữ dội. nó như muốn lột tả toàn bộ cảnh núi rừng vừa kỳ vĩ nhưng cũng vừa huyền bí, âm u. bốn câu thơ, nhưng trong mỗi câu thơ đều có một điểm chấm phá, đó là cái nhìn chung chung, không tập trung vào một điểm cụ thể. cảnh sắc trời, mây, non nước, núi non vừa hiện lên vừa đặc trưng của mùa thu. nhưng chính hình ảnh này đã gợi cho tác giả nhớ về quê hương của mình.

Trong bốn câu thơ tiếp theo, phu nhân bày tỏ nỗi lòng của mình trước cảnh mùa thu nơi đất khách quê người. với nghệ thuật tương phản được sử dụng trong câu năm và câu sáu, ông đã vực dậy tinh thần của tác giả một lần nữa:

“tung cuc bi khai tha nhat le, cô la dien vien tot nhat trong co vien tâm hệ.

(hoa cúc thêm giọt lệ xưa, thuyền buộc tình nhà).

có và làm một chuỗi, bạch đế trở thành một cao cấp lăng mộ.

(lạnh lùng thúc giục mọi người sử dụng dao và cai trị, các thành phố trắng và những quả bóng xấu xa).

bốn câu cuối tập trung miêu tả cảm xúc cũng là bài thơ chứa đựng nhiều cảm xúc, đó là nỗi nhớ nhà, nỗi nhớ quê, thương và xót xa vì phải sống, xót xa. hình ảnh hoa cúc là hình ảnh đặc trưng của mùa thu, cũng là hình ảnh mà tác giả phải bật khóc khi nhìn thấy, nhớ về mùa thu trên quê hương. những hình ảnh được sử dụng như con thuyền (co chu) là con thuyền lẻ loi nhưng là con thuyền hy vọng đưa tác giả trở về quê hương. khi kết thúc, chợt thấy tiếng vồ vồ xé vải bên bờ sông, lúc chiều tà. chỉ riêng âm thanh ấy thôi cũng đã mang đến niềm vui phút giây cho bức tranh đời thường nơi biên cương xa xôi, nhưng có lẽ chưa đủ xua tan những đám mây buồn bao trùm tâm hồn nhà thơ, với những nét chấm phá mạnh mẽ trong tác phẩm cùng với nét chính ở sự đại diện. cảnh và bộc lộ cảm xúc, bài thơ trở nên xúc động và làm rung động những sợi dây cảm xúc của người đọc.

Qua bài thơ “Cảm hứng sắc thu”, ta thấy được tâm hồn thi sĩ vừa nhạy cảm, vừa rung động mạnh mẽ trước cảnh vật. tấm lòng của phu nhân đã dành trọn cho quê hương, cũng qua bài thơ, tư tưởng “yêu nước thương dân” càng thể hiện rõ hơn.

Xem thêm: Tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục – Sóng – Xuân Quỳnh – Văn 12

những vần thơ của ông có sức lay động mạnh mẽ, nhất là những vần thơ như bung ra từ trang giấy, mở ra một khung cảnh rất rõ ràng … “cảm xúc mùa thu” đã đóng một vai trò quan trọng trong truyện này, khẳng định tài năng của ông, cũng như một bài thơ tiêu biểu về mùa thu của thơ ca Trung Quốc.

phân tích bài thơ Cảm xúc mùa thu – văn mẫu 4

do phu (712 – 770) ten that la tu my, nick name is Thieu lang, quê quán Quận Công, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. ông xuất thân trong một gia đình có truyền thống nho học và văn thơ lâu đời. hồi còn nhỏ làm phu cũng đi thi nhưng trượt. suốt cuộc đời, ông sống trong cảnh nghèo đói và bệnh tật. tuy nhiên, ngọn lửa đam mê văn học trong lòng anh không bao giờ tắt. ông đã sáng tác rất nhiều và để lại hàng nghìn bài thơ với nội dung phong phú, sâu sắc, phản ánh sinh động những sự kiện lịch sử của thời đại và tràn đầy tinh thần yêu nước, yêu đời. Với những đóng góp to lớn cho nền thơ ca Trung Quốc nói riêng và nền văn hóa nhân loại nói chung, Du Fu đã được UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới.

Ngoài những bài thơ được coi là “sử thi” (lịch sử bằng thơ), Đỗ Phủ còn sáng tác nhiều bài thơ trữ tình thể hiện tình cảm chân thành của mình đối với thiên nhiên, con người và cuộc sống. trong những bài thơ đặc sắc với những bài ca dao đầy cảm hứng (cảm xúc về mùa thu). Đây là bài thơ đầu tiên trong chùm 8 bài thơ do Du Fu sáng tác vào năm 766, khi đang phiêu lưu ở Quý Châu Tứ Xuyên là một vùng núi non hiểm trở, hùng vĩ, cách quê hương của nhà thơ hàng nghìn dặm. Mười một năm sau khi nổ ra cuộc khởi nghĩa An Lộc Sơn, tuy vay đã hết, đất nước kiệt quệ vì chiến tranh, nhà thơ vẫn chưa về quê hương. hoàn cảnh đó đã gợi lên cảm xúc bi thương là cảm hứng chủ đạo.

Bài thơ có thể chia làm hai phần: bốn dòng đầu (chuyên đề, thực tế) là hình ảnh thiên nhiên mùa thu nơi núi rừng thượng nguồn Trường Giang. bốn câu sau chủ yếu thể hiện cảm hứng của nhà thơ trước cảnh trở về đất khách quê người.

Ở một vài câu đầu, chỉ với vài dấu gạch ngang, tác giả đã thể hiện được thần thái của một buổi chiều mùa thu ở Quý Châu:

ngoc yêu phong thu lam, vu sơn, vu giáp khí tiêu sâm,

(Rừng phong rải rác có hạt, hàng ngàn cây si đứng riêng lẻ khi trời đổ)

bạn đọc có thể thấy do phu nằm ở vị trí khá cao có thể nhìn thấy toàn cảnh nên tầm nhìn khá xa, khá rộng. Năng lực quan sát tinh tế của Đỗ Phủ được thể hiện ngay từ câu thơ đầu tiên tả cảnh rừng phong: Ngọc Lựu Thượng Phong Thược Lâm (Rừng phong rải rác có hạt móc). Trong thơ ca cổ Trung Quốc, hình ảnh rừng phong gắn liền với mùa thu bởi cứ đến mùa thu, rừng phong lại chuyển sang màu đỏ, tượng trưng cho sự chia ly. sương trắng còn tượng trưng cho mùa thu, cho cái lạnh. một làn sương dày làm khô héo rừng phong. những nét đơn điệu của khung cảnh hiện lên rất rõ qua cái nhìn đầy tâm trạng của nhà thơ.

câu thứ hai: vu sơn, vu giáp khí tiêu sâm. Nói đến Vu Sơn, Vu Giáp, người đọc nghĩ ngay đến hình ảnh tiêu biểu của vùng đất Ba Thục xưa. toàn bộ khung cảnh được bao phủ bởi vẻ u ám của mùa thu. trong bản dịch, từ sloth và từ hulk chỉ có thể diễn tả một phần ý nghĩa của cụm từ khi trời tối (tối tăm, u ám). từ mil non thay thế vu sơn và vu giap, khiến bản dịch dễ hiểu, nhưng làm mờ đi bản sắc của cảnh quan Châu Âu. vu sơn, vu giang nghĩa là núi vu, hẻm núi vu nổi tiếng gồ ghề, hùng vĩ. nó được đề cập đến trong nhiều thần thoại, truyện cổ tích và thơ ca của Trung Quốc. suốt bảy trăm dặm, hết núi này sang núi khác dọc theo bờ sông, hoàn toàn không có một chỗ trống. quanh năm mây mù bao phủ khắp vùng núi cao. những vách đá dựng đứng, khó có thể chiếu tới lòng sông. vào mùa thu, khung cảnh nơi đây thật ảm đạm và lạnh lẽo. qua ngòi bút miêu tả tâm trạng u uất của Đỗ Phủ càng thêm u ám, u ám.

hai câu thơ mở đầu, câu đầu tả cảnh mùa thu ở rừng phong, câu thứ hai tả cảnh mùa thu trên núi. Tuy cảnh khác nhau, nhưng nhà thơ đều nhìn họ bằng con mắt giống nhau và cùng một sự hài hước: đầy nỗi buồn.

Tiếp tục quan sát thiên nhiên trong trạng thái tâm hồn như vậy, phu nhân đã viết nên những bài thơ hiện thực đầy ám ảnh như thể có ma lực thu hút mọi người:

giang hồ, ba lang và thien dung, leo ngược lên đỉnh van đất.

(Lưng trời gợn sóng thăm thẳm, mặt đất mây mù bao phủ.)

ở cả hai câu đều là cảnh thu trên cao (rừng phong, dãy núi), cả hai câu đều là cảnh thu thấp, nhưng các chi tiết được cảm nhận qua con mắt và ngòi bút miêu tả của nhà thơ. thiên tài nhưng trong những bài thơ tuyệt vời. sông ở thượng nguồn thường hỗn tạp, nhiều thác ghềnh, nước chảy xiết. chính vì vậy mới có cảnh giữa sông sóng vỗ lưng trời. trong câu thơ dịch: đáy trời gợn sóng dưới đáy sông sâu, những tính từ rùng rợn, sâu lắng diễn tả vẻ hùng vĩ hiếm có của dòng sông nơi đây và thể hiện cảm xúc choáng ngợp của con người nhỏ bé trước thiên nhiên hùng vĩ. hình ảnh: tầng mây nhô ra từ cánh cửa khác xa với thực tế của cảnh mây trắng ùa về, thấp như bay ra khỏi mặt đất, che khuất cả cánh cửa phía xa.

nếu ở hai câu trước, cảnh nhuốm màu u buồn, tàn tạ thì ở đây cảnh thật hùng vĩ, dữ dội. hai cặp câu đối bổ sung cho nhau, thể hiện hai nét độc đáo của cảnh sắc miền biên viễn vừa âm u vừa hùng vĩ.

bốn câu thơ, mỗi câu tả một cảnh thu cụ thể, đặt cạnh nhau tạo thành một hình ảnh mùa thu rộng lớn, thể hiện rõ nét cái hồn đặc trưng của mùa thu ở miền sơn cước với núi rừng phong ba. núi non, bầu trời, lòng sông, mặt đất, mây trời, cửa xa… sức gợi của hình ảnh mùa thu ấy trong tâm trí người đọc là vô hạn, vô tận. Tuy tác giả chưa đề cập đến cảnh đời huyền ảo nhưng dường như đã ẩn chứa sau đó là hình ảnh những cánh rừng phong bị sương gió xé nát, hình ảnh đất trời lộn ngược trên sóng sông trùng điệp và những đám mây xám trong khu vực cửa khẩu quan trọng. Đứng trước khung cảnh ấy, một thi nhân với trái tim nhạy cảm như làm phủ, làm sao không nhớ quê cũ?

Trong bốn câu thơ tiếp theo, phu nhân bày tỏ nỗi lòng của mình trước cảnh mùa thu nơi đất khách quê người. câu năm và câu sáu có một nghệ thuật rất hay là vừa là cảnh rơi vừa là cảnh tình:

<3

(hoa cúc thêm lệ xưa, thuyền buộc tình nhà)

Đây là hai dòng hay nhất trong bài thơ phú chữ Hán và từ bản dịch của Nguyễn Công Trứ.

Cũng như hình ảnh rừng phong gắn liền với mùa thu, hình ảnh hoa cúc cũng gắn liền với mùa thu. du du đề cập đến hoa cúc, đó là không có gì mới. điều quan trọng là mỗi khi cúc họa mi nở, nhà thơ lại rơi lệ. nguyên văn câu thơ bằng chữ Hán; cành hoa cúc bi-khai tha nhất la (hoa cúc đã nở hai lần khiến nước mắt ngày trước). Bản dịch của Nguyễn Công Trứ là: Hoa cúc tàn thêm giọt lệ xưa cũng rất hay, giúp người đọc hình dung được tâm trạng cô đơn, buồn tủi của Đỗ Phủ trong suốt những năm tháng phiêu bạt, tri ân nơi quê nhà. . nhìn thấy hoa cúc nở hai lần có nghĩa là du fu đã sống ở Quí Châu được hai năm. những bông hoa cúc họa mi khiến nhà thơ hồi tưởng về những mùa thu trước trên quê hương xưa, vì thế càng bồi hồi, xúc động đến nghẹn ngào.

Hoa cúc là yếu tố gợi, hình ảnh con thuyền làm trỗi dậy nỗi nhớ nhà, nhớ nhà trong lòng tác giả: nó phản ánh nhất hệ thống. (con đò lẻ loi mãi neo đậu nỗi nhớ vườn xưa). câu thơ dịch đã mất đi tính từ cô liêu mang đầy tâm tư, tâm trạng của người làm phu nơi đất khách quê người. chiếc thuyền cô đơn (co chu) là một ẩn dụ có ý nghĩa không chỉ bởi tính chất lênh đênh, đơn độc của nó mà còn bởi nó là phương tiện duy nhất mang trong mình nỗi khát khao trở về quê hương của nhà thơ. .

có và làm một chuỗi, bạch đế trở thành một cao cấp lăng mộ.

(lạnh lùng thúc giục mọi người sử dụng dao và cai trị, các thành phố trắng và những quả bóng xấu xa).

Ở hai câu cuối, bỗng có tiếng vồ đập vào tấm vải bên bờ sông, trong bóng mặt trời lặn. Chỉ riêng tiếng đàn này thôi cũng đã mang đến một niềm vui nho nhỏ cho bức tranh đời thường nơi biên cương xa xôi, nhưng niềm vui ấy không đủ xua tan những đám mây buồn đang bao trùm tâm hồn nhà thơ.

không khí se lạnh của mùa thu nhắc nhở mọi người rằng mùa đông sắp đến, cần nhanh chóng chuẩn bị may áo ấm. hãy đọc lại câu thơ thứ tư: sự nâng cao và rung chuyển của trái đất. (Tại cổng, mây giảm mạnh gặp mặt đất âm u.) Lúc này, loạn lạc của một miền sơn cước đã tan, nhưng đất nước chưa yên, chồng con của bao người vẫn canh cánh nơi xa, nỗi lo vẫn còn đó. Trời đã tối (lăng), không thấy gì, nhà thơ chỉ nghe tiếng vồ đập vào tấm vải và xúc động nghĩ đến những người lính thú ở hải quan. tiếng thu may vừa dứt bài thơ đã mở ra nỗi buồn mênh mang… “muôn vàn lời thương” (lời dứt mà ý không dứt). du fu cảm thấy rằng từ ngữ không thể diễn tả được cảm xúc của mình.

Đặc điểm thơ của bài thơ là kết cấu rất hẹp, từng câu đều bám sát chủ đề, nghĩa là thể hiện được hai yếu tố “cảm xúc” và “mùa thu”, vừa tả cảnh vừa chứa đựng. Tâm trạng cảnh vật có sương thu, rừng thu, sắc thu, khí thu, gió thu, sông thu, hoa thu, âm thanh mùa thu (tiếng chày đập vải). tác giả nắm bắt được cái hồn của mùa thu trong bài thơ. Đó là một buổi chiều mùa thu cụ thể ở vùng đất Quý Châu trong thời kỳ suy tàn của triều đình phong kiến ​​đương thời. chiến tranh xảy ra liên miên, phủ đã dời đến những góc trời xa nhất. ngày đêm, anh chỉ ấp ủ một hy vọng nhạt nhòa là trở về quê cũ. chắc ước mơ làm phú cũng là ước mơ của bao người nghèo tha hương. vì vậy, bài thơ tuy không trực tiếp miêu tả hoàn cảnh xã hội nhưng vẫn mang ý nghĩa hiện thực sâu sắc và chan chứa tình người.

Xem Thêm : 【Havip】 Mối Quan Hệ Giữa Văn Học Và Hiện Thực, Quan Hệ Văn Học

Trong bài thơ, các mối quan hệ giữa xa và gần, giữa không gian và thời gian, giữa thị giác và thính giác, giữa thu được liên kết chặt chẽ với nhau. sự vận hành của câu thơ tứ tuyệt rất logic: từ xa đến gần, từ không gian đến thời gian, từ bên ngoài để thể hiện nội tâm. tiềm ẩn trong từng câu, từng chữ là nỗi lòng day dứt, đau đáu về cuộc đời và tình người của người dân làm phủ.

Cảm xúc về mùa thu là bài thơ thấm đẫm phong cách trữ tình của bài phú. nguồn cảm hứng dồi dào đến từ sự rung động mãnh liệt của trái tim nhà thơ đã được thể hiện trọn vẹn qua ngòi bút thần kì. Đối với Đỗ Phủ, mùa thu đồng nghĩa với nỗi buồn và nỗi nhớ không nguôi, nhất là khi phải sống trong cảnh nghèo đói, bệnh tật, cô đơn nơi đất khách quê người. cùng với một số bài thơ nổi tiếng khác như bài cao ngất ngưởng, câu đối lưu bút … đã được lưu truyền rộng rãi từ hàng nghìn năm nay, giúp khẳng định tài năng xuất chúng của làm quan. bạn có xứng đáng được thế giới tôn vinh là “thánh thơ” của thi ca không? Thinh duong ai cung biet danh.

phân tích bài thơ Cảm xúc mùa thu – văn mẫu 5

Nói đến Trung Quốc, không ai bỏ qua nhà thơ nổi tiếng Du Fu (712-770). ông có hàng nghìn bài thơ phong phú và sâu sắc, phần lớn viết về ảnh hưởng của thời đại đối với cuộc sống của con người và đối với chính bản thân ông. ông có nhiều kiệt tác, trong số đó có bài thơ “Cảm xúc mùa thu”, bài thơ đầu tiên trong chùm thơ “thu” năm 766, khi ông cùng gia đình lánh nạn về quy nhơn.

“cảm xúc mùa thu” vừa là hình ảnh mùa thu ảm đạm, ảm đạm, vừa là hình ảnh nói lên tâm trạng u uất của nhà thơ trong lúc đất nước rối ren, rối ren. bài thơ chia làm hai đoạn, bốn dòng đầu của bài thơ tả cảnh mùa thu ảm đạm. bốn dòng tiếp theo tả tình là cảm xúc của nhà thơ về cảnh mùa thu, nỗi nhớ quê, tình cảm con người nơi xứ người. hai câu thơ đầu được nhìn từ rất xa và rộng:

ngoc thích lâm, vu sơn, vu giáp tiêu sâm.

Tác giả đã đặt điểm nhìn từ rừng xuống sông, bao quát cả chiều rộng. Nhắc đến phong là người ta nghĩ ngay đến mùa thu bởi cứ đến mùa thu, rừng phong lại đỏ rực thể hiện sự chia ly, buồn bã. tuy nhiên, lớp sương trắng dày đặc khiến toàn bộ khu rừng phong càng thêm hoang vắng và lạnh lẽo. những nét đặc sắc của cảnh vật hiện ra rõ ràng trong mắt nhà thơ.

câu thơ thứ hai làm nổi bật cái lạnh lẽo của “vu sơn, vu thủy” là một con ngõ hiểm trở, hùng vĩ với những bức tường dựng đứng, khó cho ánh sáng mặt trời xuyên qua lòng sông. mùa thu, không khí se lạnh, ảm đạm trong con mắt hài hước của nhà thơ càng thêm ảm đạm, ảm đạm. qua hai câu đầu nói về cảnh núi rừng mùa thu, sự hoang vắng, hiu quạnh, buồn man mác lan tỏa khắp không gian hoàn toàn khác với cảnh thu trong thơ ca truyền thống. do nỗi buồn ấy mà phú đã viết nên những vần thơ sâu lắng:

giang gian, ba lang kiêm thien dung, tại đỉnh vang van tiếp xúc với đất.

Trong hai câu thơ này có một hình ảnh tương phản rất thú vị, sóng lên trời rồi mây rơi xuống đất, từ dưới lên trên rồi từ trên xuống, chuyển động đối lập và triệt để. . cảnh trong thu chuyển động dữ dội tạo nên một hình ảnh mùa thu vừa hùng vĩ vừa bi tráng. sự chuyển động đáng kinh ngạc của hiện trường, cũng là sự chao đảo của xã hội vào thời điểm đó.

lời bài hát là nỗi nhớ da diết của nhà thơ đối với thời đại bấy giờ. bốn câu thơ tả cảnh cụ thể đặt cạnh nhau tạo nên một hình ảnh mùa thu hùng vĩ vừa trầm lắng, vừa dữ dội, hùng vĩ. cảnh vật tự nó gợi lên một nỗi buồn tê tái và ngầm thể hiện sự lo lắng của nhà thơ về tình trạng bất ổn nơi biên giới. cảnh mùa thu đầu thu đã gợi lên trong lòng nhà thơ bao niềm thương nhớ. bốn câu thơ sau thể hiện nỗi nhớ quê hương và tình cảm yêu nước.

tung cuc bi khai tha nhat coc chu yeu la mot trong nhung tinh cam cua toi.

Xem thêm: Tôi đi học – Tác giả tác phẩm (mới 2022) | Ngữ văn lớp 8

hoa cúc là loài hoa mùa thu, là biểu tượng của sự tươi vui và sắc đẹp, nhưng nhìn vào nó lại ứa nước mắt, gợi lên nỗi buồn da diết của thi nhân, nhìn hoa cúc lại gợi cho ta những mùa thu trên quê hương thật buồn, ngột ngạt. chữ “nước mắt” trong bài thơ khó phân biệt là nước mắt của người hay của hoa, nhưng có lẽ nên hiểu: mỗi khi nhìn hoa cúc nở, nhà thơ lại xúc động nhớ về quê hương.

những giọt nước mắt cứ thế không kìm được, hình ảnh những bông hoa cúc cứ nở ra khoe sắc lại gợi nỗi nhớ bồi hồi và những giọt nước mắt đầy ân tình của nhà thơ. . “co chu” con đò lẻ loi, lòng tác giả càng xốn xang khi nhìn thấy con đò, nỗi nhớ quê hương da diết.

hình ảnh chiếc thuyền lênh đênh, lang thang là phương tiện duy nhất để nhà thơ gửi gắm khát vọng trở về quê hương, “hệ thức nâng đỡ” rất đặc biệt nó gắn chặt lòng người với quê hương như một con thuyền lênh đênh. về quê hương Với nghệ thuật ẩn dụ tinh vi, hai dòng thơ đã thể hiện rõ ràng nỗi nhớ quê sâu sắc và sinh động của nhà thơ. hai câu cuối được miêu tả sinh động:

có và làm một chuỗi, bạch đế trở thành một cao cấp lăng mộ.

cảnh ồn ào của việc may áo khoác mùa đông, cảnh người ta giặt áo cũ, tiếng chày đập vải ồn ào trên sông để chuẩn bị cho mùa đông sắp đến, vẽ nên một cuộc sống vui tươi và ồn ào, vang vọng, vang dội. càng đào sâu vào lòng người nỗi nhớ quê hương da diết, càng lắng đọng, nghĩ về cuộc sống thanh bình nơi quê hương, càng nhớ quê da diết. trời tối mịt, nhà thơ không còn nhìn thấy gì, chỉ nghe tiếng chày đập vải và xúc động nhớ những người lính nơi cửa khẩu.

sử dụng không gian của chiều dài, chiều rộng, nửa chiều cao, chiều sâu, từ thấp đến cao và từ cao xuống thấp và đặc biệt ẩn dụ, đối xứng hẹp. một cách viết hay để tả cảnh ngụ tình, ngôn ngữ giàu cảm xúc, dùng quá khứ để nói hiện tại. đoạn thơ thể hiện một hình ảnh thiên nhiên hùng vĩ mà hiu quạnh, sôi động nhưng mờ ảo trong sương thu, đồng thời thể hiện tâm trạng buồn thương với nỗi nhớ quê hương của nhà thơ.

bài thơ “cảm xúc về mùa thu” là một bài thơ rất hay và ý nghĩa. bài thơ là nỗi nhớ quê hương của tác giả khi xa quê trong thời loạn lạc. bài thơ nhắc nhở chúng ta thêm yêu quê hương đất nước, trân trọng nơi đã sinh ra mình.

phân tích bài thơ Cảm xúc mùa thu – văn mẫu 6

tùy hứng (bài 1) của bài phú là một bài thơ tiêu biểu, rất sâu sắc, súc tích và kín đáo. trong tâm trí thơ và cảnh, thơ và họa, chuyển động và tĩnh lặng, lẫn lộn, đôi khi khó phân biệt.

Có thể tạm chia bài thơ thành hai phần, bốn câu đầu là cảnh thu và bốn câu cuối là nỗi lòng của thi nhân. sự phân chia như vậy là đầy đủ về mặt lôgic hình thức nhưng chưa thực sự đi sâu vào chiều sâu của mối quan hệ biện chứng giữa hai phần của bài thơ. chúng ta biết rằng đặc điểm của thơ ca cổ nói chung và thơ Đường nói riêng là cái nhìn thống nhất giữa con người và vũ trụ (“thiên địa tương ưng”). “tôi” (tôi nhỏ) chỉ là một phần của “tôi” (tôi lớn).

cho nên các thi nhân xưa nói “cảnh” cũng là nói “tâm”, nói “tâm” là thường vẽ “cảnh”. các nhà thơ cổ đại Trung Quốc thường đề cập đến mối quan hệ này. đó là “tâm nhập cảnh” (hồn xương nhập cảnh) “tâm nhập cảnh” “tình cảnh” (yên hoang dao) “tình không gặp cảnh”, “tình không gặp”, ”. tình cảnh trùng sinh ”(phối ngẫu công chúa). ngay trong bốn câu đầu, qua những nét vẽ nổi bật của cảnh vật đã bộc lộ góc nhìn đang thay đổi của nhà thơ.

chỉ có điều, cảnh ở đây dường như được vẽ bằng những nét bút có phần rõ ràng, “khách quan” hơn bốn dòng tiếp theo. bài thơ có thời gian: mùa thu; ở đó (địa điểm: vu sơn, vu giới (thuộc thượng nguồn sông Thường Giang, vùng Quảng Châu tỉnh Tứ Xuyên) khung cảnh nơi đây cũng có phần cá tính hóa với những gam màu hùng vĩ, độc đáo: núi non hiểm trở, sóng biển tung bọt, mây rơi. xuống đất, cảnh tượng dần hiện ra nhanh chóng giống như một đoạn phim.

ống kính dội lên những tán cây phong sương trắng (ngọc đường tản mác) (từ “tản mác” trong bản dịch trông không giống nghĩa gốc lắm), đến cảnh vu núi non trùng điệp. kèm theo nhục bổng, từ từ đến từng đợt bọt nước dâng lên trời giữa sông rồi đứng trên mây đen chạm đất nơi cửa thành. bốn câu thơ còn gợi cho ta liên tưởng đến những bức tranh màu nước với những nét vẽ chấm phá khéo léo. cảnh vật hiện ra trong cái “thần”, cái “hồn” của ông. nhưng đằng sau hình ảnh ấy ẩn chứa bao nhiêu cảm xúc.

Trạng thái của tâm trí này được thể hiện đầu tiên trong việc lựa chọn cài đặt. các nhà thơ cổ đại không đặt ra để khám phá đối tượng mà họ quan sát (dù bên trong hay bên ngoài), mà là để sắp xếp và cắt tỉa nó cho phù hợp với nhận thức lý tính. thơ cổ không phân biệt chủ thể và đối tượng. ngay điểm nghỉ đầu tiên, “ngọc bội phong vân thương lam” đã mở ra hướng đi đã chọn. cảnh những lưỡi câu trắng phá hủy toàn bộ khu rừng phong khiến chúng ta liên tưởng đến những cây phong và cây phong khác trong thơ ca cổ đại.

cây phong trong thơ tang dường như gắn liền với nỗi buồn chia ly. lúc hạ chí (lẻ loi, lẻ loi, khổ ải), trong truyện kiều của nguyễn du còn có “rừng phong thu đã nhuộm màu quan san” đọng lại trong mắt người phụ nữ xa xứ. những nét vẽ tả cảnh tiếp theo như khắc sâu thêm nét hoang vắng, cô đơn, buồn bã trong tâm hồn nhà thơ. Được rồi, cảnh vật nơi đây cũng có nét hùng vĩ, nhưng sự hùng vĩ ấy không thể át được vẻ u buồn, tiêu điều, buồn hiu quạnh hiu hắt từ núi xuống rừng.

hai câu sau đối lập nhau về nghĩa và từ, tạo nên một khung cảnh tương phản trong hình ảnh “giang ba lãng đãng hùng tráng – lại đỉnh trước rùng mình” mây bay ra xa) cho ta ấn tượng đối lập: khung cảnh vừa dữ dội, vừa hùng vĩ và vừa bực bội, vừa bị bao vây và không thể thoát ra.

Đúng là hình ảnh “tâm cảnh” trong con mắt của một người xa quê, nỗi nhớ quê, lòng trĩu nặng, đồng thời cảm thấy bồi hồi, hụt hẫng, khắc khoải khi nhìn về quê hương. và nhìn ra thế giới. Bạn Kim Thành có lý khi bình luận: “Nhìn sông thì thấy sóng dâng cao, nhìn biển thì chỉ thấy gió mây trên đất thôi. Thật là xót xa, xót xa, làm lòng người trái tim đi ra ngoài. “

bốn câu sau, tác giả tiếp tục phát huy tình cảm của mình. ở đây, tình cảm được bộc lộ trực tiếp hơn, cụ thể hơn nhưng vẫn sâu sắc, kín đáo. tầm nhìn hợp lý trừu tượng hóa những điều cụ thể. tác giả nói đến hoa cúc, đến con thuyền, nhưng chúng chân thành là “tâm” hay “cảnh” khác nhau. “tung cúc di khai tha nhơn lê” (hoa cúc nở hai lần: giọt lệ ngày trước) và “cô đơn lòng bạn đồng viên” (con thuyền lẻ loi buộc lòng nhớ vườn xưa), có lời ít nhiều không rõ hoa cúc rơi lệ hay nhà thơ khóc cùng cúc họa mi, không hiểu dây buộc tàu hay dây buộc lòng người.

ho chi minh cho rằng những câu thơ này có thể hiểu theo hai cách: “hoa cúc đã nở hai lần nước mắt già” hoặc có thể hiểu là “nhìn hoa cúc nở, hình như hoa cúc còn nhỏ. “. giọt nước mắt cũng là giọt nước mắt cuối cùng), sự vật và con người (bê tông và sợi chỉ dày).

Đối chiếu với tình hình, nhà thơ có thể hiểu rằng du fu đã hai năm kể từ khi ông rời kinh đô đến Quý Châu và đã trải qua hai mùa thu. dòng “lệ xưa” của nhà thơ không chỉ “đỏ mặt” một lần mà đạp nhiều lần. và đúng là có người nhận xét trong bài thơ rằng ông lão thiếu gia xưa nay cằn cỗi, gợi cảm …

Hai dòng cuối của bài thơ này thật độc đáo và gợi mở nhiều ý nghĩa. trong thơ tang, hai câu cuối thường bộc lộ cảm xúc, bộc lộ cảm xúc trực tiếp, nhưng ở đây tác giả hướng nó ra cảnh vật khách quan bên ngoài. nhưng ở đoạn đầu cảnh khách quan là “tĩnh”, sau đó cảnh đày ải là “động”. cảnh càng huyên náo hơn trong không khí “rộn ràng dao may áo đông” và tiếng chày đập quần áo buổi chiều trong tòa thành trắng.

Nhịp thơ dường như cũng nhanh hơn, dồn dập hơn. tuy nhiên, đó chỉ là cảnh bên ngoài, chưa chắc lòng nhà thơ đã thay đổi. vì góc nhìn của nhà thơ vẫn là cái nhìn trong bóng chiều. tiếng quần áo đập vào buổi chiều ở thị trấn trắng cao đó (thị trấn trắng của bóng chày vang vọng bóng ma quỷ) dễ dẫn người ta đến những liên tưởng buồn.

nó như hòa cùng tiếng nhạc buồn “chơi game” của nhịp áo ngủ trăng của người đàn bà nhớ chồng trên đảo y thien de li bach (tà áo ngủ dài bay trong bóng trăng ), hoặc tiếng gậy bóng chày đập vào áo của người phụ nữ. đàn bà mùa thu trong thơ bệt di cư (mùa thu nhớ chồng đánh tơ, gió trăng lồng lộng), tiếng chày giã cào báo hiệu mùa đông đến, mùa đông có một (thiếu cơm, thiếu của quần áo, không, không, không. nhà, ở lại nơi đất khách quê người và trái tim tôi luôn đầy lo lắng và khao khát.

Như vậy, trên cái nền của cảnh thu với rừng thu, không khí thu, hoa thu, âm thanh mùa thu, nhà thơ đã hòa vào đó tâm trạng của chủ thể trữ tình, một tâm trạng đầy xót xa, dịu dàng, sầu muộn. , chết trong tình yêu nặng nề đối với đất nước và nỗi lo lắng thầm kín đối với thế giới.

phân tích bài thơ Cảm xúc mùa thu – văn mẫu 7

Do fu được mệnh danh là thánh thơ, một trong những nhà thơ vĩ đại nhất trong lịch sử văn học Trung Quốc. ông đã để lại một sự nghiệp đồ sộ và giá trị, khoảng 1500 bài thơ. tình cảm mùa thu được đúc kết từ tập thơ “thu” gồm tám bài. Tình cảm mùa thu được coi là bài thơ hay nhất, và nội dung bao hàm bảy bài thơ còn lại. tác phẩm thể hiện nỗi nhớ quê hương da diết, khắc khoải của tác giả.

Tác phẩm được sáng tác vào năm 766, khi Trung Quốc chấm dứt cuộc nổi dậy An Lộc Sơn. loạn loc son đã gây ra hậu quả thảm khốc. triều đại tang gia rơi vào suy thoái. cả nội chiến và ngoại xâm đều có nguy cơ nổ ra. hoàn cảnh của người dân vô cùng khốn khổ, và bản thân du fu cũng phải trải qua cảnh khốn cùng và hoang tàn đó.

khi đó, do phu nhân đến đất Tứ Xuyên, được sự giúp đỡ của một người bạn thân là một quan chức, nhưng sau khi người bạn thân qua đời, mất đi chỗ dựa. Anh đưa gia đình về nhưng vì đói nên anh bị mắc kẹt trong cảnh quy nhon hai năm trong cảnh nghèo khó, bệnh tật và bế tắc. trong những năm này anh ấy đã sáng tác rất nhiều, giọng nói của anh ấy bi thương và buồn bã.

<3

Câu thơ đầu đã cho người đọc thấy ba hình ảnh tiêu biểu nhất của mùa thu: rừng phong, hạt móc câu, mùa thu ngàn thu, ba hình ảnh này có mối quan hệ khăng khít với nhau gợi cảm giác se se lạnh. sương là loại sương mùa thu điển hình ở Trung Quốc, loại sương gợi lên sự băng giá và lạnh lẽo. nhưng trong bản dịch, câu thơ không truyền tải được tinh thần của nguyên tắc: giọt sương rơi rời rạc – rời rạc là tính từ chỉ sự khan hiếm của giọt sương rơi.

tạo ra một cảnh mờ ảo và lôi cuốn. mở đầu phải là lớp sương trắng dày đặc, rối rắm bao trùm toàn bộ không gian, cảnh vật. màu trắng không gợi sự trong sáng, thuần khiết mà gợi sự buồn bã và cô đơn, lạnh lẽo. kết hợp với làn sương trắng, hoàng hôn là hình ảnh rừng phong đỏ rực mùa thu gợi lên sự ấm áp và tươi sáng. nhưng với màn sương trắng dày đặc, nó đã làm cho toàn bộ khu rừng mùa thu trở nên khô héo và hoang vắng.

sang câu thơ thứ hai, thể hiện rõ hơn sự buồn bã, cô đơn của cảnh thiên nhiên. vu sơn, vu sơn là những dãy núi trải dài, không có kẽ hở. vùng núi cao đó không bao giờ nhìn thấy ánh sáng mặt trời nên rất tối và u ám. kết hợp với màn sương mù dày đặc khiến không gian càng thêm u ám, ảm đạm. ba hình ảnh kết hợp lại cho người đọc liên tưởng đến khung cảnh mùa thu nơi đất khách quê người: lạnh lẽo, hoang vắng và tăm tối.

Nếu trong cả hai câu, tác giả bao quát cảnh theo chiều ngang, thì ở hai câu thực, tác giả bao quát cảnh theo chiều cao: giang gian, ba lang kiêm thiển / trở về phong vân. tác giả sử dụng câu thơ kết hợp các biện pháp nghệ thuật tương phản, phóng đại: sóng dậy trời; những đám mây rơi xuống mặt đất. hai sự vật tự nhiên chuyển động ngược chiều nhau: nhảy lên, lao xuống, các động từ đã nhấn mạnh hơn sự chuyển động ngược chiều đó.

hai thứ chuyển động ngược chiều nhau, ép vào nhau, khiến không gian trở nên dày đặc hơn, đầy mờ ảo, sa mạc của sông và mây. hình ảnh mùa thu có vẻ hùng vĩ nhưng mây mù, dữ dội, đầy ùn tắc. bốn câu đầu mở ra không gian nhìn từ xa: rừng phong, sông núi, cửa sông, v.v. bốn dòng tiếp theo của bài thơ có một chuyển động gần hơn, trước mắt tác giả hiện ra hình ảnh:

<3

với ý nghĩa sâu sắc, bản dịch của bài thơ đã không truyền tải được đầy đủ ý nghĩa của bản gốc. câu thứ năm cung cấp nhiều cách giải thích, vì chủ đề của hành động xé được ẩn. câu thơ có thể hiểu nước mắt rơi là của hoa cúc bởi vì cánh hoa nở ra cũng là lệ, hoa cúc nở cũng là hoa cúc rơi lệ. nhưng cũng có thể hiểu chủ thể của giọt nước mắt là nhà thơ. Mỗi khi nhìn những bông cúc đang nở, tôi nhận ra rằng thời gian không còn nhiều nữa, tôi buộc phải ở lại đây mãi mãi, càng xúc động và dậy lên nỗi nhớ trong bơ vơ.

Dù hiểu theo cách nào thì câu thơ cũng chất chứa nỗi niềm của tác giả mỗi khi hoa cúc họa mi nở. Hoa cúc nở đã hai lần nhấn mạnh số phận, hai năm, quãng thời gian gia đình tác giả lưu lạc, bôn ba nơi đất trồng quất. “dual” cũng là một con số quy ước – số nhiều – gợi ý những cơn đau liên tục và dai dẳng. không chỉ hoa cúc nở năm nay mới khơi dậy nỗi đau, mà nỗi đau năm ngoái cho thấy nỗi đau thường trực, dai dẳng, thường trực trong một thời gian dài. nỗi đau của sự trì trệ – nỗi đau của thời cuộc, nỗi nhớ quê hương không thể quay trở lại.

tình cảnh lẻ loi của tác giả được thể hiện rõ nét nhất qua hình ảnh “cô chu”, hình ảnh con thuyền lẻ loi, lẻ loi. đồng thời gợi lên tình cảnh lẻ loi, cô đơn, lênh đênh nơi đất khách quê người của tác giả. trước hết, câu thơ là một hình ảnh thực: con thuyền chở gia đình nhà thơ về quê bị mắc cạn ở bãi lệ. đằng sau nghĩa thực còn có hàm ý: gửi gắm nỗi nhớ neo đậu trên con thuyền lẻ loi nơi đất khách quê người. chữ “trói” trở thành nhãn hiệu của câu thơ, vừa là sợi dây buộc thuyền, vừa là sợi dây ràng buộc lòng người.

có và làm một chuỗi, bạch đế trở thành một cao cấp lăng mộ.

Trong nỗi nhớ quê hương da diết ấy, cảnh nhộn nhịp dao kéo may áo rét, giã vồ, giã áo càng thể hiện rõ hơn tình cảm của những người xa quê. lưu vong nơi đất khách quê người. nhưng thêm vào đó, hình ảnh còn thể hiện sự lo lắng vì đất nước chưa được bình yên.

Với ngôn ngữ cô đọng, súc tích cùng nét thư pháp đặc sắc thể hiện cảnh ngụ ngôn, Đỗ phủ đã tái hiện một hình ảnh mùa thu buồn, da diết và se lạnh. đằng sau bức tranh ấy còn là tâm trạng của bài thơ: trăn trở với quê hương, nỗi nhớ quê hương và nỗi đau cho thân phận của chính mình.

Nguồn: https://truongxaydunghcm.edu.vn
Danh mục: Văn Học

Related Articles

Back to top button