Giá trị nhân đạo của Vợ nhặt hay nhất (9 Mẫu) – Văn 12

Giá trị văn học của tác phẩm vợ nhặt

giá trị nhân văn của người vợ phản ánh nỗi đau khổ và khát khao được sống và hạnh phúc của người nghèo , từ đó thể hiện số phận con người trong xã hội cũ, đêm trước khi cách mạng bùng nổ. .

với 9 đề nghị luận về giá trị nhân đạo của người vợ giúp các em học sinh lớp 12 có thêm tài liệu tham khảo, củng cố vốn từ vựng, tự rèn kĩ năng làm bài đạt điểm cao THPT quốc gia năm 2021. Tại đây , tham khảo và tải tài liệu tại đây.

tóm tắt giá trị nhân đạo của vợ bạn

i. mở đầu

– giới thiệu chung về truyện “nhặt vợ” và giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.

ii. nội dung bài đăng

1. nạn đói khủng khiếp năm 1945

* Trong truyện, cảnh tượng bi thảm của quần chúng lao động trong nạn đói khủng khiếp năm 1945 đã được tác giả miêu tả bằng tất cả sự đồng cảm và thương xót.

a) nạn đói lan tràn khắp nơi và lan đến các khu dân cư nghèo.

– Những gia đình nam định, thái bình trong đàn đắp chiếu, ôm nhau, xám xịt như những bóng ma. Mỗi sáng sớm có một vài người bị bóp cổ bên vệ đường, tỏa ra mùi khét lẹt của xác chết.

– Toàn bộ lịch sử của loạt phim diễn ra trong bối cảnh đói khổ và tang tóc này. cảnh xóm trọ chiều đưa vợ về; tiếng khóc vào ban đêm, mùi củi đốt.

b) hoàn cảnh của gia đình

– dấu hai chấm: tội nghiệp quá, tôi không lấy được vợ.

– vợ: vì đói nên anh phải theo cô ấy, cô ấy không làm vợ nữa, cô ấy không lấy chồng.

– Cảm xúc bùi ngùi từ món ăn đón dâu mới (nồi cháo, bát cám).

2. sự ủng hộ, hy vọng của những người lao động nghèo

Lịch sử đã soi sáng trên nền đen u ám đó sức sống và khát vọng: mái ấm gia đình và sự đùm bọc, đùm bọc lẫn nhau của những người lao động nghèo, thắp sáng niềm tin và hy vọng của những người lao động nghèo.

a) hoàn cảnh kén vợ, “nhặt” vợ và ý nghĩa

– thái độ của anh ta từ lúc anh ta coi đó là một vấn đề nhỏ nhặt cho đến lúc anh ta coi đó là một vấn đề nghiêm trọng của cuộc đời mình (trích dẫn và phân tích những lời nói và hành động của anh ta khi anh ta gặp người phụ nữ và trong lúc trở về nhà).

b) ánh sáng của hạnh phúc gia đình giữa cơn đói kém

– khung cảnh của gia đình, ngôi nhà, khu vườn vào sáng hôm sau.

– tâm trạng thất thường, vợ nâng đỡ.

– ý nghĩa và thái độ của bà lão, nỗi đau, sự thương cảm và hy vọng của người mẹ.

– hy vọng của anh ấy về một sự thay đổi số phận theo hướng cách mạng.

3. giá trị nhân đạo của tác phẩm

– tư tưởng nhân đạo hướng tới quần chúng lao động, khẳng định phẩm chất và sức sống bền bỉ của họ.

– niềm tin của tác giả vào những khát vọng bình dị là những con người thực vẫn muốn sống, vẫn khao khát yêu thương và gắn bó, tin tưởng nhau đã tạo cho họ niềm tin để sống.

– chủ nghĩa nhân đạo của tác phẩm dựa trên sự hiểu biết sâu sắc, gắn liền với đời sống nông dân của kim đoàn. tác giả không tô vẽ, ông lý tưởng hóa các nhân vật của mình.

iii. kết thúc

– tóm tắt lại vấn đề

giá trị con người của người vợ được thu thập – mẫu 1

“nhặt vợ” là truyện ngắn độc đáo có một không hai của kim lân. câu chuyện kể về một người đàn ông nghèo trong xóm tìm được vợ khi có nạn đói khủng khiếp, người đói đầy đường.

Những câu chuyện đã phản ánh nỗi đau khổ và khát khao được sống, hạnh phúc của những người nghèo khổ, từ đó kể lại số phận của những con người trong xã hội cũ, đêm trước khi cách mạng bùng nổ. giá trị lớn nhất trong truyện “nhặt vợ” là giá trị nhân đạo.

Từ trước đến nay, trong văn học Việt Nam hiện đại, chưa có tác phẩm nào viết về nạn đói năm Ất dậu, 1945, viết hay và xúc động như truyện “nhặt vợ” của Kim Lân. nguồn cảm hứng của con người dồi dào từ đầu đến cuối câu chuyện.

Xem thêm: Phân loại nhân vật văn học – Theki.vn

Cảnh mẹ chồng gặp con dâu mới rất cảm động. vượt qua hủ tục ăn hỏi, cưới xin không mấy mâm cỗ, cụ bà thương người đàn bà xa lạ, thương con, thương thân, chấp nhận lấy một người bạn gái mới: “thôi thì có phận ở đời với nhau, em cũng vậy. vui mừng.” tình yêu của ông bao la, ông nghĩ “nếu người ta đối mặt với bước khó khăn và đói khổ này, thì chỉ có con riêng của mình, chỉ có con mình mới có vợ …”. dịu dàng và trìu mến gọi cô dâu mới là “con trai”. lòng đầy xót xa, bà nói với hai con: “Năm nay đói lắm rồi, lấy nhau lúc này buồn lắm …”. qua đó hiểu sâu sắc hơn lý lẽ sống. những người nghèo lao động đối mặt với thiên tai, đã tin cậy nhau, sẻ chia yêu thương, sẻ chia vật chất để vượt qua mọi thử thách, hướng về ngày mai với niềm tin và hy vọng: “ai giàu ta, ai khó ba đời.”. độc giả cảm thấy rằng ngọn đèn “vàng xỉn” chiếu từ trần căn lều đêm tân hôn của hai vợ chồng là ngọn hải đăng của hy vọng và hạnh phúc.

bữa cháo cám đón nàng dâu mới là một chi tiết mang giá trị nhân đạo tiêu biểu nhất của truyện “nhặt vợ”. bà cụ gọi nó là “phomai … ngon”. ông tự hào nói với hai con trai của mình, “xóm chúng tôi thậm chí không có cám để ăn.” qua bữa cháo cám, anh kể đủ chuyện vui vui sau này. cảnh gia đình mẹ con vô cùng “ấm êm” hạnh phúc sau này, vợ chồng con cái được ăn những bữa cơm thịt, cá thơm ngon hơn nhưng không bao giờ quên được bữa cháo cám sáng hôm ấy. vị cháo cám tuy “đắng” mà ngọt, chan chứa bao tình thương của mẹ. Kim Lân sống gần gũi với người dân quê, hiểu sâu sắc tâm lý, tình cảm của họ. ông đã làm cho các thế hệ mai sau biết được những cay đắng của đời cha ông, cảm nhận được hương thơm của cuộc đời, của tình yêu thương của lòng mẹ, … mà không một món ngon nào có thể so sánh được. ?

kim lan đã bày tỏ những cảm xúc hay và ấm áp nhất về sự đổi đời của những người thợ cày Việt Nam. mừng vì đã có vợ, lũ trẻ tinh nghịch reo lên: “ông chồng vui tính”. với cuộc hôn nhân, những người dân trong chợ cảm thấy “có một cái gì đó rất lạ và mát mẻ đang thổi vào cuộc sống tối tăm và đói khổ của họ”. bà lão mừng rỡ vì con trai có vợ, bà như thiếu nữ, nhẹ nhõm, tươi tắn “rạng rỡ hơn”. vợ anh trở thành một người phụ nữ “có chừng mực”. Nó giống như bước ra từ một giấc mơ. anh tỉnh dậy với cảm giác “mềm mại bồng bềnh”. hạnh phúc đến không ngờ. việc anh ấy có vợ sau một ngày đêm nhưng “anh ấy vẫn ngỡ như chưa có”.

sự thay đổi của cuộc sống cũng được phản ánh trong cảnh quan. mẹ và vợ dậy sớm quét dọn nhà cửa, ruộng vườn. tiếng chổi quét sàn. hai thùng chứa nước đã được đổ đầy nước. Những đống mùn phủ kín các hành lang đã được dọn dẹp sạch sẽ. mẹ chồng, con dâu mới, con trai ai cũng muốn góp sức mình vào việc sửa sang mái ấm gia đình hạnh phúc. họ không nghĩ đến cái chết mà nghĩ về sự sống, hạnh phúc và sự đổi đời. cảm thấy mình đã “trở thành đàn ông”, cảm thấy mình phải có bổn phận chăm lo cho vợ con sau này!

một chi tiết rất thú vị là sau khi nghe tiếng trống khai thuế, họ báo rằng ở thái nguyên, bắc giang, dân không nộp thuế, người ta phá kho thóc của Nhật để chia cho dân đói. và nhìn thấy trong tâm trí anh ta “một lá cờ đỏ đang vẫy”. cuộc cách mạng sắp tới. cơn đói sẽ bị loại bỏ. hình ảnh lá cờ đỏ ở cuối truyện không chỉ nêu bật giá trị nhân đạo mà còn tạo nên âm hưởng lạc quan nổi bật, như một điềm báo về một ngày mai ấm no, hạnh phúc.

<3 có ai tìm được vợ đông tây kim cổ chưa? nạn đói do người Nhật và người Pháp gây ra đã cướp đi sinh mạng và nhân phẩm của con người. một chân lý đã được khẳng định: khát vọng tình yêu và hạnh phúc, khát vọng sống mạnh hơn cả cái chết. hương vị ngọt ngào của cuộc sống và tình người ấm áp đã toát lên giá trị nhân đạo của truyện “nhặt vợ” mà chúng tôi trân trọng.

giá trị nhân văn của người vợ được sưu tầm – mẫu 2

một chân lý được khẳng định: khát vọng tình yêu và hạnh phúc mạnh hơn cái chết. thực tế, hương vị ngọt ngào của cuộc sống và tình người ấm áp đã làm nổi bật giá trị nhân đạo trong câu chuyện của Vợ người ta.

Nhặt Vợ là một truyện ngắn độc đáo có một không hai của xứ kim chi. câu chuyện kể về một người đàn ông nghèo sống cùng xóm tìm được vợ khi trận chiến đang trở nên tồi tệ, người dân chết đói.

Những câu chuyện đã phản ánh nỗi thống khổ và khát khao được sống, hạnh phúc của những người nghèo khổ, từ đó nói lên số phận của những con người trong xã hội vào đêm trước khi cách mạng bùng nổ. giá trị lớn nhất của câu chuyện người vợ được sưu tầm là giá trị nhân đạo.

Từ trước đến nay, trong nền văn học Việt Nam hiện đại, chưa có tác phẩm nào viết về nạn đói năm Ất dậu – 1945 hay và cảm động như truyện Vợ người ta của Kim Lân. nguồn cảm hứng của con người dồi dào từ đầu đến cuối câu chuyện.

câu chuyện của người vợ nhặt phản ánh nỗi khổ cực của nhân dân ta, là người nghèo năm dậu. nhóm người từ các vùng phía Nam Nam Định, Thái Bình cùng đội chiếu ôm đến khi thành “xám như ma” nằm rải rác khắp các gian hàng trong chợ. những con quạ đen đậu trên ngọn cây và bay lên “như những đám mây đen” trên bầu trời. mùi người còn vương vấn. người đói như xác lá. Mỗi sáng có bốn xác chết nằm bên vệ đường!

đói và chết không đơn độc! hai mẹ con, ngôi nhà “trống không, cheo leo” trên mảnh vườn đầy cỏ dại. cửa nhà là một tấm bình phong. xoong nồi, bát đĩa quần áo vứt bừa bãi trên giường, nền nhà. tài sản đã khiến cô dâu mới thất vọng, “nén tiếng thở dài”. cái “mặt buồn” cũ. ông già “bước đi mỏi mòn”, đầu “khẽ cúi về phía trước” với bao lo toan, vất vả. lũ trẻ con chợ một thời tinh nghịch giờ “ngồi ủ rũ dưới lòng đường, không nhúc nhích”. trước kho hàng tỉnh có mấy chị “ngồi”. đặc biệt là nhân vật “không tên, không tuổi”. , không gia đình, không anh em, không quê hương sụp đổ hoàn toàn ”, khuôn mặt chiếc điếu cày“ xám xịt ”, chỉ còn nhìn thấy hai con mắt. Con đường phía trước của cô là vực thẳm, là cái đói. Cái đói cướp đi tất cả. Cô chỉ nghe nói hai chữ ” ăn gì tùy thích ”, nhìn anh ta vỗ vỗ túi quần tỏ vẻ “cha con nhà người ta”, hai mắt “sưng vù” của anh ta lập tức “sáng lên”. tập phim mà anh ấy ăn bốn bát bánh cuốn trong một lần ngồi. nó có vẻ thô lỗ, nhưng không đáng trách, ngược lại, rất đáng tiếc. anh ta đói, anh ta đã nhịn ăn nhiều ngày, anh ta cần ăn, anh ta cần sống. Kim Lân thật nhân hậu khi nói về nhân dân, khi nói về cái đói và cái khát của người nghèo.

làng chài buổi chiều “tả tơi, hôi hám”, nhà thì “canh, tối” mà mặt thì “hốc hác”. bữa cơm đón bạn gái mới của cụ già là một nồi cháo cám. một cô gái ở giữa nạn đói giống như một thứ dùng một lần mà có thể “nhặt được”. anh lấy vợ không cau, không lá trầu, không tiền mừng cưới, lại chuyền máy ảnh cau ”. khi về nhà chồng, đứng trước mặt mẹ chồng, cô con dâu mới “khép nép”, “đưa tay vuốt ve chiếc áo rách”. Trong đêm tân hôn, “tiếng kêu thảm thiết” của những gia đình có người vừa mất nghe thật xót xa. vào buổi sáng sớm, tiếng trống tài chính vang lên từng hồi “nhanh lên, nhanh lên.” Bằng những chi tiết hết sức chân thực và tiêu biểu, Kim Lân đã thể hiện sự xót thương, lo lắng cho số phận của những người nghèo khổ trước nạn đói khủng khiếp. càng đáng quý hơn, Người đã đứng về phía nhân dân, đứng về phía dân nghèo, vạch trần và tố cáo tội ác của bọn Nhật, Pháp, cưỡng bức trồng đay, ép thuế, bóc lột nhân dân ta đến tận cùng, gây ra nạn đói. gallo, hơn hai triệu đồng bào của chúng tôi đã chết vì đói.

Xem Thêm : Phân Tích Bài Thơ Chú Bò Tìm Bạn ❤️ 5 Bài Cảm Nhận Hay

Câu chuyện chọn vợ đã thể hiện tấm lòng biết ơn hạnh phúc của con người. Lời kể của Kim Lân rất dí dỏm về tình huống chàng trai tìm vợ và những hoàn cảnh xung quanh nàng dâu mới. chỉ vài câu “ý tứ vô nghĩa”, bốn bát bánh bèo, anh đã nhặt được vợ rồi! anh nhặt được vợ nhưng cũng phải đánh liều: “thế này, không có đâu!”. ông cho rằng gạo này khó tự bảo quản và vẫn đang “quá cảnh”. trên đường đưa người vợ mới chọn về nhà xin phép mẹ già, anh mừng như mở cờ trong bụng. Kim Lân đã miêu tả ánh mắt và nụ cười của chàng trai vụng về này để làm nổi bật niềm hạnh phúc khi nhặt được vợ “bức ảnh dị thường”. anh “cười toe toét”. đôi mắt của anh ấy “sáng lên và lấp lánh”, đôi khi khuôn mặt của anh ấy “tự lấp lánh”.

Hình ảnh cây tràng và chiếc chợ dạo cùng nhau trông thật bắt mắt. khoe hai lạng dầu rồi phì cười, bị “vỗ” vào lưng bằng câu yêu thương: “con khỉ gió”, ngửa cổ muốn tắt đèn con, bị thị mắng: “chỉ có cái này là nhanh, bẩn.” ! ”Những tập phim này thường nói rằng tình yêu mạnh hơn cái chết.

Cảnh mẹ chồng gặp con dâu mới rất cảm động. Vượt qua hủ tục ăn hỏi, cưới xin, không thiếu vài mâm cỗ, bà cụ thương khách lạ, thương con, thương thân, chấp nhận làm dâu mới: “Có mệnh, có phận ở đời. vui mừng.” Tình yêu của anh vô cùng lớn, anh tâm niệm “người ta phải trải qua giai đoạn khó khăn và đói khổ này mới có con riêng, nhưng chỉ con mình mới có vợ…”. với sự dịu dàng yêu thương, anh ấy gọi cô dâu mới là “con trai”. , nói với hai đứa con của mình: năm nay sắp đói lắm rồi, các con chuẩn bị lấy chồng lúc này buồn lắm, nên chúng tôi càng hiểu lý do sâu sắc hơn. đùm bọc nhau, sẻ chia yêu thương, sẻ chia vật chất để vượt qua mọi thử thách, hướng về ngày mai với niềm tin và hy vọng: “Ba nhà giàu, ba đời khó…” người đọc cảm nhận được ngọn đèn “vàng mờ” tỏa sáng trên mái nhà. trong căn lều đêm tân hôn của cô dâu và chú rể có ánh sáng của hy vọng và hạnh phúc.

bữa cháo cám đón nàng dâu mới là một chi tiết mang giá trị nhân đạo tiêu biểu nhất trong lịch sử nhặt vợ. bà cụ gọi nó là “phomai … ngon”. ông tự hào nói với hai cậu con trai của mình rằng “xóm chúng tôi thậm chí không có cám để ăn.” qua bữa cám yến, anh kể về mọi chuyện vui vẻ, hạnh phúc trong tương lai. trong tương lai, hai vợ chồng sẽ có thể thưởng thức những bữa ăn ngon hơn. thịt, cá, nhưng không bao giờ bạn có thể quên được bữa cháo cám sáng hôm ấy. Kim Lân sống gần quê, thấu hiểu sâu sắc tâm lý, tình cảm của bà và đã khiến cho các thế hệ mai sau biết được những cay đắng của cuộc đời. nhận được hương thơm của cuộc sống, tình yêu thương của trái tim người mẹ mà không một loại thực phẩm cao cấp nào có thể sánh được?

kim lan đã nói lên những cảm xúc hay và ấm áp nhất về cuộc sống của người dân cày việt nam. mừng vì đã có vợ, lũ trẻ tinh nghịch reo lên: “ông chồng vui tính”. với sự xuất hiện của một người vợ, những người hàng xóm xung quanh cảm thấy “một cái gì đó mới mẻ và lạ lùng đang thổi vào cuộc sống đói khổ và tăm tối của họ”. bà cụ mừng vì con trai có vợ, bà như trẻ lại, nhẹ nhõm và “sáng sủa” hơn. vợ anh trở thành một người phụ nữ “có chừng mực”. Nó giống như bước ra từ một giấc mơ. Anh tỉnh dậy cảm thấy lủng lẳng. “Hạnh phúc thật bất ngờ khi anh lấy được vợ sau một ngày đêm mà anh vẫn” ngỡ ngàng như chưa “.

sự thay đổi của cuộc sống cũng được phản ánh trong cảnh quan. mẹ và vợ dậy sớm quét dọn nhà cửa, ruộng vườn. tiếng chổi quét sàn. hai bể chứa đầy nước. Những đống mùn phủ kín các hành lang đã được dọn dẹp sạch sẽ. mẹ chồng, con dâu mới, con trai ai cũng muốn góp sức mình vào việc sửa sang mái ấm gia đình hạnh phúc. họ không nghĩ đến cái chết mà nghĩ đến sự sống để hướng tới hạnh phúc và đổi đời. cảm thấy mình đã “thành người”, cảm thấy mình phải có bổn phận chăm lo cho vợ con sau này!

một chi tiết rất thú vị là sau khi nghe tiếng trống khai thuế, họ báo rằng ở thái nguyên, bắc giang, dân không nộp thuế, người ta phá kho thóc của Nhật để chia cho dân đói. và nhìn thấy trong tâm trí anh ta “một lá cờ đỏ đang vẫy”. cuộc cách mạng sắp tới. cơn đói sẽ bị loại bỏ. hình ảnh lá cờ đỏ của người vợ nhặt không chỉ nêu bật giá trị nhân đạo mà còn tạo nên âm hưởng lạc quan bàng hoàng, như một điềm báo về một ngày mai ấm no, hạnh phúc.

Niềm vui đạo tràng và niềm vui của mẹ già tuy muộn màng nhưng thật đáng quý biết bao! có ai tìm được vợ ở đông tây xưa không? nạn đói do quân Nhật gây ra đã cướp đi mọi thứ, tính mạng và phẩm giá của con người. một chân lý được khẳng định: khát vọng tình yêu và hạnh phúc mạnh hơn cả cái chết. thực tế, hương vị ngọt ngào của cuộc sống và tình người ấm áp đã làm nổi bật giá trị nhân đạo trong câu chuyện của Vợ người ta.

giá trị nhân văn của người vợ được sưu tầm – mẫu 3

Giá trị nhân đạo của Vợ nhặt hay nhất (9 Mẫu) - Văn 12

“Vợ nhặt” là một trong những truyện ngắn hay nhất của Kim Lân và của văn học Việt Nam sau năm 1975. Truyện được in trong tập “Con chó xấu xí” (1962). Truyện “Vợ nhặt” có giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực sâu sắc. Thông qua tình huống “nhặt vợ” tác giả đã cho ta thấy nhiều điều về cuộc sống tối tăm của những người lao động trong nạn đói năm 1945 cũng như khát vọng sống mãnh liệt và ý thức về nhân phẩm rất cao ở họ.

giá trị nhân đạo là giá trị cốt lõi của các tác phẩm văn học chân chính, được tạo nên từ sự đồng cảm sâu sắc với nỗi đau của con người, sự quan tâm và trân trọng đối với những nét đẹp trong trái tim, tâm hồn con người và niềm tin vào khả năng trỗi dậy của họ.

Trước hết, vở kịch thể hiện sự xót thương cho những kiếp người khốn khó trong nạn đói năm 1945. Vì vậy, nó tố cáo tội ác tày trời của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra nạn đói. bối cảnh chính của truyện “nhặt vợ” diễn ra ở một xóm dân cư, nơi mà cái đói hành hạ mọi người, cái đói thấm vào cả cảnh vật. con đường từ khu phố chợ đến bến “lác đác”, thứ ánh sáng đầu tiên soi rọi trong lịch sử là thứ ánh sáng mờ ảo, mờ ảo, không tắt hẳn ánh sáng hoặc tối hẳn của buổi “chạng vạng” chiều tà. trên con đường và ánh sáng mờ ảo ấy hiện lên một cách ủ rũ, những bóng người đói khát “xám xịt như những bóng ma”. những người còn sống nằm rải rác khắp các hàng quán trong chợ, bên cạnh là những “xác chết nằm vắt vẻo bên lề đường”. trên ngọn cây là hình ảnh bầy quạ “kêu từng hồi, từng cơn tuyệt vọng”, tiếng trống thuế vang vọng bên tai, lũ trẻ ngồi co ro nơi góc phố, không thèm nhúc nhích… một cuộc đời nơi rìa. chết chóc với bầu không khí “có mùi hôi thối của rác rưởi và mùi hôi thối của xác người.”

thứ hai, tác phẩm đi sâu tìm hiểu và trân trọng khát vọng hạnh phúc, khát vọng sống của con người mà trước hết là đạo tràng. khi đón vợ, anh ta không biết “chọn”, “cơm này, cả xác mình, không biết có cho ăn hay không, còn đậu”. nhưng rồi anh “tặc lưỡi”: “tsk, kệ!”. sau đó, mọi câu chuyện đùa lập tức khép lại thành nghiêm túc và anh ta được đền bù: “Trong một khoảnh khắc, anh ta dường như quên hết những cảnh đau buồn của cuộc sống, một điều gì đó mới mẻ chưa từng thấy ở người đàn ông tội nghiệp đó, vuốt ve khắp làn da anh ta, như thể anh ta có một đưa tay nhẹ nhàng vuốt lưng “. đời khổ lắm mua hai xu dầu cũng phí” hai xu, đắt quá “,” vợ mới, vợ tội nghiệp, anh phải làm cho nó sáng sủa hơn một chút phải không? ” không phải bây giờ trời đã tối sao? “ngay trên.” hôm nay là một ngày khác, một sự kiện duy nhất trong đời, một ngày mà bạn có một người vợ và một ngôi nhà cần được thắp sáng.

tiếp theo là cảm giác đeo bám cuộc đời vô cùng mãnh liệt trong nhân vật người vợ. thị đồng ý bỏ qua cảm giác danh dự để đi theo tràng. hoàn cảnh bi đát như vậy một mặt đẩy con người ta quên đi danh dự của mình để tồn tại, mặt khác lại bộc lộ khát vọng sống mãnh liệt của những con người dưới đáy xã hội như thế này. ai cũng có cảm giác vun đắp cuộc sống mới. Nghĩ về nhân vật bà lão, ta cũng thấy rằng chính bà lão gần đất xa trời này nói lên hơn tất cả niềm hy vọng về ngày mai: dệt nên bức ngăn cách vợ chồng, con cái một cách kín đáo, chuyện “có tiền thì mua mấy con gà” … “mẹ chồng nàng dâu dọn dẹp nhà cửa, sáng hôm sau dậy sớm dọn dẹp nhà cửa cho sạch sẽ gọn gàng” ai cũng có vẻ hãy nghĩ rằng “ông sửa cửa nhà cho ấm no, trật tự, cuộc sống của bạn có thể sẽ khác, công việc làm ăn của bạn sẽ tốt hơn. Xuyên suốt vở kịch, chúng ta cũng thấy được hy vọng về một sự thay đổi trong cuộc sống của các nhân vật, được thể hiện qua hình ảnh lá cờ đỏ phất phơ trong tâm trí.

giá trị nhân đạo của truyện còn thể hiện ở niềm tin sâu sắc vào sự đổi đời, vào lòng nhân hậu của con người. cây đàn tràng tuy bề ngoài có vẻ xấu xí nhưng vẻ đẹp mà nó ẩn chứa bên trong là sự cảm thông, nhân ái, độ lượng, tế nhị, cho anh bốn bát bánh, mua cho anh một chai dầu, mua cho anh một cái thúng nhỏ, đó là một hành động hết sức bình thường, nhưng thể hiện lòng biết ơn và thái độ sống có trách nhiệm của đạo tràng. Về phần ‘vợ nhặt’ đã có sự thay đổi về tính cách, trước khi làm vợ trở lại, thí sinh xuất hiện với vẻ nhí nhảnh, nhí nhảnh. trước khi đồng ca hát, người công an nói “còn nhiều cơm trắng”, lần thứ hai gặp người gắt gỏng và nói: “dao! người ta thật đồi bại” … nhưng người đàn bà đó sau khi về làm vợ đã đã thay đổi, vẻ tự mãn ban đầu của cô ấy không còn nữa, thay vào đó là sự tế nhị và chu đáo trong phong thái: bước đi hơi cúi đầu, đội nón rách, nghiêng che khuất nửa khuôn mặt, khi về đến nhà, cô ấy chỉ dám ngồi ở rìa của. cái giường. Sáng hôm sau, tôi dậy sớm để dọn dẹp nhà cửa…. Còn cụ bà thương con lắm, thương cảm cho hoàn cảnh của nàng dâu mới, “gặp cảnh khốn khó thế này thì người ta mới có con riêng, chứ con mình mới có vợ”. , bà ân cần trong cách cư xử với con dâu “ngồi đây, ngồi đây cho đỡ mỏi chân”. chị luôn trăn trở về bổn phận làm mẹ “ôi, người ta lấy chồng cho con thì nhà ăn mới làm được… còn mình thì không”, hai hàng nước mắt giàn giụa. . cô luôn cố gắng để gia đình hạnh phúc giữa bộn bề cuộc sống. rằng người mẹ sống vì con cái và tìm thấy ý nghĩa cuộc đời khi chăm sóc con cái.

cái nổi bật trong giá trị nhân đạo của tác phẩm là niềm tin sâu sắc vào con người lao động, vào bản năng sống, khát vọng sống mãnh liệt của họ. tình cảm nhân đạo của tác phẩm mới hơn tình cảm nhân đạo thể hiện trong nhiều tác phẩm văn học hiện thực trước cách mạng.

giá trị con người của người vợ được thu thập – mẫu 4

Kim Lân là nhà văn viết truyện ngắn văn xuôi nổi tiếng của Việt Nam. trong các tác phẩm của ông người ta có thể tìm thấy tính hiện thực đậm nét, tính chất tố cáo mạnh mẽ, nhưng có lẽ giá trị lớn nhất, cao nhất là giá trị nhân đạo. Từ bóng tối của hoàn cảnh, Kim Uni muốn làm cho hồn thơ của con người tỏa sáng. ánh sáng của nhân loại tỏa ra hào quang đặc biệt của tình người sâu sắc và cảm động. Giá trị nhân đạo xuyên suốt trong các tác phẩm của Kim Lân và có thể thấy rõ nhất trong truyện “nhặt vợ”. Kim Lân khi nói về tác phẩm này đã nói: “Khi viết về cái đói, người ta thường viết về cái nghèo và cái bi kịch. khi viết về những con người trong năm đói, người ta thường nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một câu chuyện ngắn với một ý tưởng khác. Dù cận kề cái chết nhưng những người này không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng về cuộc sống, vẫn hy vọng và tin tưởng vào tương lai. họ vẫn muốn sống, sống để làm người. ”

giá trị nhân đạo là một giá trị cơ bản của tác phẩm văn học chân chính được thể hiện trên nhiều phương diện, khía cạnh khác nhau. tuy nhiên, nhìn chung, giá trị nhân đạo trong văn học xuất phát từ thái độ yêu thương trân trọng những phẩm chất tốt đẹp của con người, sự đồng cảm với nỗi khổ, cũng như ngợi ca, trân trọng khát vọng của con người, ngoài ra nó còn là tiếng nói lên án, tố cáo các lực lượng áp bức. và bóc lột người lao động. “Vợ nhặt” của Kim Lân là một truyện ngắn có giá trị nhân đạo, nhân văn sâu sắc bởi tấm lòng nhân đạo của Kim Lân đối với những số phận bất hạnh, sự trân trọng vẻ đẹp tâm hồn cũng như niềm khát khao hạnh phúc, hướng tới tương lai của con người ở dưới đáy xã hội.

về “người vợ nhặt”, có lẽ ấn tượng đầu tiên tác động ngay đến người đọc là cảnh ngộ và số phận bi thảm của con người trong nạn đói. Kim Uni viết về cái đói với trái tim đầy yêu thương, xót thương cho những kiếp người nhỏ bé đáng thương nhưng lại nổi bật lên các nhân vật bà lão, ông lão, người vợ. ba nhân vật là nạn nhân của cơn bão đói và khát khủng khiếp, họ bị lay chuyển và bị ngược đãi cho đến khi biến dạng và biến dạng trong nhân loại.

nhân vật là một nông dân nghèo sống với mẹ già ở ngoại ô; thời đó, xóm được coi là xóm của những người sống nhờ vào đậu và bị coi thường. ông sống trong một căn lều xiêu vẹo trong một khu vườn đầy cỏ dại và kiếm sống bằng nghề đẩy xe bò. anh ta cũng là một thanh niên xấu xí được miêu tả với hai con mắt nhỏ xíu, lúc nào cũng nhìn chằm chằm như nhìn vào bóng hoàng hôn, thân hình to lớn, cường tráng và thô kệch, lưng rộng như lưng gấu, đầu trọc lóc … không những thế, anh cũng có thói quen lảm nhảm khi vừa đi vừa than thở về những gì anh đang nghĩ. điều này cho chúng ta thấy anh ta vẫn là một người ngây thơ và ngốc nghếch, thậm chí có chút điên rồ. Nhân vật kim lan, dưới ngòi bút của kim lân, giống như một sai lầm của tạo hóa … ở điểm này, kim lan đã cho chúng ta thấy đầy đủ rằng ông là một trong những người nghèo và thuộc tầng lớp thấp của xã hội. thời gian.

người phụ nữ lớn tuổi, mẹ cô ấy là một bà già, khuôn mặt sưng phù, u ám, đôi mắt mờ và bước đi tập tễnh. Ở tuổi đó, lẽ ra bà cụ phải được hưởng hạnh phúc, bình yên bên con cháu. tuy nhiên, nạn đói không loại trừ một ai. anh vẫn phải còng lưng gồng gánh mưu sinh, lo từng bữa rau, bữa cháo. Thêm vào đó, bà lão luôn day dứt vì giữa năm đói khát, không làm tròn trách nhiệm của người mẹ, không chu toàn cho con cái nên những đứa trẻ phải lấy nhau trong hoàn cảnh trớ trêu. và cay đắng.- nhặt vợ. thể xác và tâm hồn của người mẹ tội nghiệp mệt mỏi và buồn bã vì đói.

đói, mọi người đều bị. giọt nước mắt tiếc thương của kim uni dành cho tất cả những người dân năm đói. nhưng có lẽ, phải đến khi nhân vật vợ nhặt, chúng ta mới thấy được sự tàn phá khủng khiếp của cái đói đối với thân phận con người và loài người. ở nhân vật này, cái đói thể hiện rõ “trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn lại hai mắt”, “quần áo tả tơi như tổ đỉa”, “cô gầy trơ xương”. không những thế, cơn đói còn khiến tôi quên hết sự dịu dàng, duyên dáng của một người phụ nữ. nói chuyện chợ búa, cẩu thả và vô duyên. Thậm chí chỉ dựa vào một vài câu chuyện cười và bốn bát bánh Trang, cô đã sẵn sàng làm vợ anh một lần nữa. nhưng, dưới cái kim của ngòi bút, điều đáng tiếc hơn là đáng trách. Nếu không vì cái đói và cái chết, làm sao anh ta có thể bán rẻ lòng tự trọng, bán rẻ nhân phẩm của mình một cách vô liêm sỉ như vậy?

Ngoài niềm xót xa, thương cảm cho số phận của những người nghèo khổ trong nạn đói, giá trị nhân đạo trong truyện “vợ nhặt” còn được thể hiện qua thái độ trân trọng, ngợi ca phẩm chất của những người nghèo khổ. phẩm chất tốt đẹp của con người, đó là lòng nhân ái, tình thương yêu giữa những người cùng khổ.

đầu tiên là ký tự dấu hai chấm. Khi anh ta đang đẩy một chiếc xe bò thuê, anh ta thấy người phụ nữ đang đói và anh ta cho cô ta ăn, mặc dù anh ta không có nhiều dư dả. Trong thời buổi đói kém, miếng ăn là lẽ sống nên hành động tưởng chừng như ngẫu nhiên này của cụ tràng lại là một nghĩa cử cao đẹp. Sau đó, chỉ bằng một vài câu bông đùa, người phụ nữ đã theo về làm vợ anh và anh đã chấp nhận dù có chút sợ hãi. những suy nghĩ và cảm xúc của bạn trong hoàn cảnh này thật đáng quý và đáng trân trọng. tấm lòng cao cả của con người còn được thể hiện qua nhân vật bà cụ Tứ. Việc cô kết hôn khiến cô không khỏi ngạc nhiên, nhưng khi nghĩ lại, cô hiểu ra nhiều điều. bà thấy thương cho cuộc sống cơ cực, tội nghiệp, thiếu thốn của con trai vì nghèo nên không ai nỡ bắt vợ đi. Bà day dứt vì vi phạm bổn phận làm cha, làm mẹ để con cái rơi vào cảnh cay đắng. Bà yêu con bao nhiêu thì bà cũng yêu người bấy nhiêu. anh nhìn người phụ nữ xa lạ với ánh mắt quan tâm, thương cảm và một suy nghĩ trào dâng từ tấm lòng bao dung, nhân hậu: “Nếu người ta đối mặt với cảnh nghèo khó này thì cũng chỉ có con thôi. Nhưng chỉ con trai ta mới lấy được vợ… ”nên bà cụ đã sẵn sàng sinh con và nhận nàng dâu mới. còn người vợ nhặt dù bị bỏ đói đến mất hết cả bản thân, nhưng khi trở thành người của gia đình, ở thành phố, cô ấy lại toát lên vẻ đẹp của một người vợ nhân hậu, giỏi giang. cô cũng e ấp, ngại ngùng như bao cô gái trẻ ngày đầu về nhà chồng. khi trở lại long đình, hắn chỉ dám ngồi ở mép giường, tay lần mò vạt áo. dưới bàn tay chăm sóc và dũng cảm của mẹ, cuộc sống nghèo khổ, éo le của hai mẹ con đã trở nên tươi sáng hơn. nhà cửa, ruộng vườn được quét dọn, vệ sinh, đi vào nề nếp. họ mang ra ngoài hiên mấy bộ quần áo rách như tổ đỉa vẫn còn phơi trong góc nhà. Vẫn còn hai cái thùng nước để cạn dưới gốc cây ổi đầy nước. đống mùn ở hành lang đã sạch bóng. Quan chức này cũng nhấn mạnh rằng cô ấy “rõ ràng là một người phụ nữ tốt bụng và không còn vẻ mặt tự mãn” trước đây. Như vậy, qua nhân vật Tràng, ông lão và vợ chồng, Kim Lân đã ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người lao động Việt Nam. họ luôn sống nhân ái, giàu tình thương yêu, trong hoạn nạn đã nhường cơm sẻ áo, quan tâm đến nhau. Và có lẽ chính vì tình yêu đó mà nó sẽ giúp cuộc sống của bạn tươi sáng và tốt đẹp hơn!

ai đó đã từng nói: “nghèo đói, đau đớn hay bệnh tật có thể kết thúc cuộc sống, nhưng bạn sẽ thực sự chết khi không còn niềm tin hay khát vọng sống”. với kim lân, để các nhân vật của anh đi đến tương lai tốt đẹp, anh không chỉ dành tình yêu cho họ mà lớn hơn là khát vọng sống, khát vọng yêu thương mãnh liệt.

Đối với nhân vật, khi anh ta vươn tay ôm lấy một người phụ nữ giữa cơn đói khủng khiếp, không chỉ có tình người, sự sẵn sàng sẻ chia bất hạnh mà còn là khát vọng mãnh liệt về tình yêu, hạnh phúc gia đình. Với một anh chàng xấu trai, đanh đá, nghèo khó và khùng khùng thì việc lấy được vợ là điều vô vọng. tẩm bổ cho người phụ nữ cũng là để tìm kiếm cho mình tình yêu và hạnh phúc tương lai với một mái ấm gia đình “có vợ sinh con đẻ cái”. ngôi nhà như một nơi che mưa, che nắng ”. khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc, đã từ một người đàn ông chất phác, thô lỗ, thô lỗ, trở thành một người đàn ông có trách nhiệm, một người con hiếu thảo. “anh ấy phát hiện ra mình yêu tổ ấm của mình một cách kỳ lạ”, “sau này anh ấy thấy mình có trách nhiệm hơn với vợ con”. Không chỉ vậy, khát vọng về hạnh phúc và tương lai đã khiến cô nghĩ đến việc phải đứng dậy tìm cách sống cho riêng mình, sống lại hoàn cảnh khốn khó hiện tại. tâm trí anh bắt đầu nghĩ về những người dân đói khổ và lá cờ đỏ đang vẫy. Có lẽ, Tràng cũng sẽ đi cướp kho thóc của Nhật, phá bỏ xiềng xích nô lệ. Anh tin rằng số phận, cuộc đời của anh, của vợ và thậm chí là của mẹ anh sẽ thay đổi.

Xem thêm: Nêu Những Tác Phẩm Của Lê-Ô-Na Đơ Vanh-Xi, Leonardo Da Vinci

không chỉ chân quê, người vợ nhặt của Kim lân còn có khát vọng sống đáng trân trọng. giữa cơn đói khát đe dọa đến tính mạng, nàng đã không ngần ngại bỏ qua lòng tự trọng, rủ rê vài câu chuyện tiếu lâm để theo kẻ lạ mặt về làm vợ. Kim Uni đã cho thấy thị trường vốn không phải là một người rụt rè, bất cẩn và vô liêm sỉ như vậy. Tất cả đều phụ thuộc vào ý chí sống. đó cũng là sự xuất hiện của ngôi làng đã mang lại ánh sáng cho những mảnh đời tăm tối của những người dân nghèo lam lũ nơi làng quê, cho mẹ con họ. sức sống đó đến từ một con người có khát vọng sống và tương lai cao đẹp.

Khi chúng ta nói về hy vọng cho tương lai, niềm tin vào hạnh phúc … chúng ta dễ dàng nghĩ đến những người trẻ tuổi. nhưng thật kỳ lạ, trong “ông đồ nhặt vợ”, đó là ngôi kể cổ nhất, “gần đất xa trời” của tác phẩm nói nhiều hơn về hy vọng và về ngày mai hơn tất cả. là nhân vật của người phụ nữ xưa. muốn truyền cho con mình sự lạc quan, tự tin và tương lai. đầu tiên là hành động kích động đèn bật sáng. ngọn đèn được bật sáng để lan tỏa ánh sáng nhân văn, niềm vui và hạnh phúc giữa bi kịch, tang tóc. nhưng hơn thế nữa, bà lão còn động viên những đứa trẻ thắp lại ánh sáng của niềm tin và hy vọng trong lòng chúng. đọc vở kịch có lẽ chúng ta không bao giờ quên được bữa cơm ngày đói của gia đình. tuy nhiên, nói đến món “sô-cô-la” đắng nghét cổ họng, bà cụ vẫn “tủm tỉm cười”. Thực sự thì làm sao mà tôi không hiểu được sự hoang tàn của loại thực phẩm này? nhưng trong hoàn cảnh nghèo khó, anh ta có thể làm gì khác. bà cụ chỉ đang cố gắng kìm nén mọi uất ức, tiếc nuối của một đời người để con được vui vẻ hạnh phúc, không cho con cháu nghĩ đến những điều đau khổ, tuyệt vọng. trong hoàn cảnh xã hội đói khổ, miếng ăn dù chỉ là cháo cám cũng là niềm hạnh phúc quý giá mà người mẹ muốn dành cho những đứa con của mình. tiếng cười của bà cụ như bóp nghẹt trái tim người đọc, thật xót xa và đáng tiếc. Không chỉ vậy, nó còn vẽ nên một tương lai tươi sáng trước mắt các em, bắt đầu từ những điều đơn giản và thiết thực nhất với con gà, con lợn, cánh đồng,… khiến các em tin rằng điều đó không còn quá xa vời. xa hơn nữa, đó là một giấc mơ có phần đau khổ về ngày mai, “và may mắn là không sao cả. làm sao bạn biết? Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời “. Người xưa đã dùng triết lý dân gian đúc kết kinh nghiệm của ông cha để nhớ con và khẳng định con cháu có quyền tin tưởng vào một ngày mai hạnh phúc, viên mãn. Bà cụ không chỉ mong ước và hy vọng ở mình mà còn tìm thấy ý nghĩa của cuộc đời mình là nuôi dạy con cái và ước mơ cho con cháu mai sau. Có lẽ người ta nói rằng bà già thật viển vông. bởi vì, trong thời buổi người thì đói meo, đầy đường, thậm chí có cháo cám nhưng “xóm nào chẳng có cám mà ăn”, những hy vọng của bà cụ là viển vông.nhưng, chúng ta không thể không thừa nhận rằng, trong bất cứ hoàn cảnh nào, niềm tin vẫn luôn hiện hữu. như một sức mạnh vô hình khiến con người ta vượt qua tất cả, chính niềm tin mà bà lão gieo vào lòng lũ trẻ đã mang đến cho gia đình nghèo khó ấy một sự “đổi mới, khác lạ”.

Những người nghèo khó đến với nhau, xây dựng cuộc sống ấm no, nhen nhóm hy vọng. giá trị nhân đạo của “vợ nhặt” không chỉ thể hiện trực tiếp qua tâm trạng nhân vật mà còn thể hiện gián tiếp qua thiết kế truyện. Thời gian trong lịch sử chuyển động theo chiều hướng bắt đầu từ chạng vạng, từ đêm tối, từ “tuyệt vọng” đến “hy vọng”, từ “ngọn đèn” ít khi được quạt cho đến hình ảnh “lá cờ đỏ” của “tấm” phảng phất trong ký ức của các Đại tràng. đó là những dấu hiệu tích cực, là niềm tin vào khả năng thay đổi cuộc đời, hoàn cảnh của nhà văn và nhân vật. một nhân cách, khát vọng và sự chuẩn bị cho một tương lai an toàn chắc chắn sẽ khiến mỗi người tự tin hơn. và đâu đó cuối câu chuyện, qua hình ảnh lá cờ đỏ phất phơ và những người dân đói khổ đi trên con đập, một tương lai tươi sáng đang ở rất gần!

như vậy, truyện “nhặt vợ” đã thể hiện được giá trị nhân đạo sâu sắc của ngòi bút. giá trị nhân đạo không chỉ dừng lại ở sự đồng cảm, yêu thương con người, trân trọng những phẩm chất tốt đẹp của con người mà nhà văn còn thể hiện thái độ phản đối hệ thống xã hội thực dân phát xít bóp nghẹt con người của mình, đẩy những người nghèo giản dị, lương thiện đến đường cùng. Đặc biệt hơn, giá trị nhân đạo của “Vợ nhặt” không chỉ dừng lại ở suy nghĩ suông mà thiết thực hơn, Kim Uni đã chỉ ra cho người nông dân giải pháp để vượt qua cảnh khốn cùng. Đó là đấu tranh chống lại hệ thống xã hội, đòi quyền con người, tìm kiếm tương lai của chính mình!

giá trị nhân văn của người vợ được sưu tầm – mẫu 5

Giá trị nhân đạo của Vợ nhặt hay nhất (9 Mẫu) - Văn 12

Nhà văn Kim Lân (sinh năm 1920), tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài, người làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Kim Lân viết không nhiều, nhưng được coi là thuộc hàng những cây bút truyện ngắn tài năng của văn học Việt Nam hiện đại. Ông rất sành về cảnh quê, người quê và thế giới của hương đồng gió nội này cộng với một tấm lòng thiết tha hiếm có đã tạo nên những trang viết sâu sắc, cảm động nhất của ông.

những người có đời sống văn hóa khá lâu (hơn năm mươi năm) cũng không hiểu hết chỉ cho ra đời hai tập truyện ngắn: Vợ chồng son (1955) và Con chó xấu xí (1962). nhưng nghệ thuật không quen với việc đo lường bằng số lượng. Chỉ là một câu chuyện như nhặt được vợ (trong Tuyển tập những chú chó xấu xí) – được coi là truyện ngắn Kim Uni hay nhất – cũng có thể là niềm mơ ước của nhiều nhà văn. truyện cổ tích có một quá trình sáng tạo khá dài. ban đầu nó được rút ra từ tiểu thuyết barrio (một tiểu thuyết viết dở dang trong thời kỳ trước cách mạng). hòa bình lập lại, do tờ văn nghệ báo kim lan viết lại. chỉ điều đó thôi cũng đã thấy vợ anh nhặt được dấu vết của một quá trình dài chiêm nghiệm về nội dung và chiêm nghiệm kỹ lưỡng về nghệ thuật.

Trong câu chuyện Vợ nhặt, Kim Uni muốn thể hiện quan điểm nhân đạo sâu sắc của mình. chính lúc đó nhà văn mới phát hiện ra vẻ đẹp kì diệu của người lao động trong hoàn cảnh nghèo khó, trong bất cứ hoàn cảnh khốn khó nào, con người vẫn vượt qua cái chết, hướng về cuộc sống gia đình, vẫn yêu thương và hi vọng vào ngày mai. không phải ngẫu nhiên ngay từ đầu Vợ nhặt đã kể về cái đói. chỉ cần một vài từ “nạn đói đã đến…” cũng đủ gợi lên trong lòng người Việt một nỗi nhớ da diết về một quốc nạn lớn đã xóa sổ khoảng một phần mười dân số của đất nước này. giống như từ kim loại kỳ lân, nguy hiểm đó “tràn qua”, tức là mạnh như thác nước.

Cách miêu tả của nhà văn gợi lên nỗi ám ảnh đau buồn qua hai kiểu hình ảnh: con người năm đói và không gian năm đói. miêu tả chân dung người chết đói với “khuôn mặt đen sạm và hốc hác”, nhưng điều đáng sợ nhất là anh ta đã hai lần so sánh người dân với ma: “các gia đình từ nam định, thái bình, dệt chiếu đổ xô ôm nhau kéo nhau thích. những bóng ma “, và” những bóng đói di chuyển âm thầm như những bóng ma “. Cách so sánh đó cho thấy cảm nhận đặc biệt của lân kim về một thời kỳ kinh hoàng: đó là thời điểm ranh giới giữa người và ma, sống và chết mỏng như sợi tóc, cõi âm dương hòa vào vương quốc. của dương. , thế giới đang trên bờ vực thẳm của thế giới ngầm.

Trong không gian của thế giới bao trùm bởi người sống và người chết, tiếng quạ kêu “thống khổ” cùng với “mùi xác người” càng làm tăng thêm cảm giác tang tóc. trên thực tế, nạn đói đã cho thấy sức mạnh hủy diệt sự sống của nó ở một mức độ khủng khiếp. Trong bối cảnh như vậy, Kim Uni đã tung ra một câu chuyện tình yêu thật táo bạo. ôi, đều là chuyện cười ra nước mắt: bốn bát bánh ngày đói làm tình, nồi cám ngày đói cũng đủ làm đám cưới… cây bút khắc khổ của kim lân không hổ thẹn mà theo đuổi hiện tại. thực tế đến cốt lõi, tạo cho câu chuyện một “nguồn” đặc biệt, nhăn nhúm, u ám, tăm tối, và tôi phải nói là hơi u ám.

nhưng mối quan tâm chính của người viết không phải là xây dựng một lời buộc tội đối với người vợ bị thu thập, mà là tập trung vào một khía cạnh khác quan trọng hơn. Từ bóng tối của hoàn cảnh, Kim Uni muốn tỏa sáng một chất thơ đặc biệt của tâm hồn con người. mặt tối của hình ảnh hiện thực buồn bã là đòn bẩy để mặt sáng của con người tỏa ra ánh hào quang đặc biệt của chủ nghĩa nhân văn chân thành và cảm động. trong văn chương, người ta thường đề cao chữ tâm hơn chữ tài. nhưng nếu tài năng không đạt đến trình độ nhất định thì làm sao phát lộ được cái tâm kia? Đối với vợ cũng vậy: Tấm lòng chân thành của Kim Uni khiến độc giả cảm động trước hết nhờ tài năng kể chuyện và thứ hai là qua cách kể chuyện.

việc xây dựng các câu chuyện ở đây là khả năng tạo ra một tình huống độc đáo. ngay cả cái tựa bài Vợ nhặt cũng chứa đựng tình cảnh như vậy. Trong một cuộc phỏng vấn, Kim uni hào hứng giải thích: “hái có nghĩa là hái, hái không mục đích. trong nạn đói năm 1945, dường như những người dân lao động khó thoát khỏi cái chết. Bóng tối bao trùm họ. Trong hoàn cảnh đó, giá trị của một con người rẻ vô cùng, người ta có thể có vợ với họ, chỉ bằng vài bát bánh canh ngoài chợ – thực chất là “nhặt” được vợ như tôi đã nói trong truyện ”. như vậy, cái thiêng (vợ) đã bị che đi (thu lại). nhưng tình huống truyện lại có một sợi dây khác: chủ thể của hành động “nhặt nhạnh” kia là anh Trang, một người dân nghèo, xấu xí, trong lúc đói khát bỗng dưng lấy được vợ, cả vợ. một điều kỳ lạ.

lạ lùng đến mức tạo nên hàng loạt sự ngạc nhiên cho hàng xóm, bà cụ – mẹ chồng và chính bản thân mình: “đến tận hôm nay, ông vẫn chần chừ như chưa. Thế là ông đã có vợ”. Vậy? “. Tình huống trên gợi ra một trạng thái tinh tế của lòng người: một trạng thái bấp bênh khó tả: mọi thứ đều hồi hộp, như có, như không. Đây là vui hay buồn? Cười hay nước mắt? … vị trí đặc biệt của tâm trạng này đã làm cho ngòi bút truyện của Kim Uni như một bài thơ.

Nó không đủ để tạo nên một câu chuyện hay. tài dựng chuyện của anh ta cũng giống như tài năng đốt pháo của anh ta. có đám cháy tốt thì châm đúng người, nhưng có nhiều pháo tàn thì vẫn phun như thường. do đó, khả năng xây dựng câu chuyện phải gắn với lời kể mới tạo được chiều sâu và sự hấp dẫn. Cách kể chuyện của Kim Lân được thể hiện qua cách sử dụng ngôn ngữ nông dân đặc biệt điêu luyện, qua những câu chữ chạm vào cốt lõi của hiện thực cuộc sống, khiến từng câu chữ như được “lấy” ra từ chính những chất liệu thô sơ của cuộc sống. nhưng quan trọng nhất vẫn là ở ngòi bút hiện thực tâm lý. Phải nói tình huống truyện trước rất được Kim Uni ưu ái làm nổi bật lên một dòng tâm lý vô cùng tinh tế trong từng nhân vật. Rất nổi bật là có hai trường hợp: bà lão và bà lão. Chúng là hai loại phản ứng tâm lý trước một tình huống giống nhau, nhưng không giống nhau.

Anh ấy là một chàng trai vụng về và ngốc nghếch, những người có thể nghĩ rằng anh ấy là một chàng trai thực sự hạnh phúc. nhưng niềm vui quá lớn, quá đột ngột, khiến Columbus vô cùng kinh ngạc. cơn say sung sướng thăng hoa trong tinh thần, khiến cho tràng giang đại hải, lơ lửng trong cõi ảo, cõi mộng. Ngòi bút cung đình của Kim Lân xưa nay tỉnh như sáo, nay ngòi bút trữ tình của nàng say sưa. nói đúng hơn, người viết phải đứng giữa cơn say / tỉnh ấy để “cảm” tận cùng cuộc đời, để tạo nên “cây bút thần” như văn kim lan trong “Người vợ được chọn”. và rồi sự ngạc nhiên trước niềm hạnh phúc đó nhanh chóng biến thành một niềm vui cụ thể và hữu hình. đó là niềm vui của hạnh phúc gia đình, niềm vui giản dị nhưng lớn lao không gì sánh được. Chẳng trách một người nổi tiếng như secnusevski từng mơ ước: “Tôi sẽ đổi nghề nếu biết rằng trong căn phòng nhỏ ấm áp, có một người phụ nữ đợi tôi đến nhà ăn tối”.

chàng trai trẻ đáng thương đã thực sự đạt được niềm vui như thế: “bỗng thấy anh gắn bó lạ lùng với mái ấm của mình. anh có một gia đình. anh sẽ nối nghiệp với anh. Người vợ sinh con ở đó. Ngôi nhà như một mái che che mưa và mặt trời. một nguồn vui và phấn khích đột nhiên tràn ngập trái tim tôi. ” một niềm vui thực sự cảm động, pha trộn giữa thực tế và ước mơ. Ở điều này, người anh của Kim Lân may mắn hơn nam chính: hạnh phúc đã nằm trong lòng bàn tay và khi anh vừa với tới tay thì xã hội đen tối đã cướp mất. có một chi tiết rất đắt về con lân vàng: “ông xăm trổ chạy ra giữa hiên, ông cũng muốn làm một việc gì đó để tham gia tu sửa nhà cửa”.

So với tạo hình “xăm vòi” ở đầu vở, hành động “xăm” tràng này là một đột biến lớn, một bước ngoặt làm thay đổi cả số phận và tính cách của tràng: từ khổ sang khổ. .sự bất hạnh, từ chán chường đến yêu đời, từ ngây ngô đến lương tâm. Tuy nhiên, Kim Lân đã có thể gửi gắm vào dòng suy nghĩ một ý thức sâu sắc về nghĩa vụ: “Giờ đã thành người rồi, anh mới thấy mình có bổn phận lo cho vợ con mai sau”. thực sự “hồi sinh tâm hồn” mới là giá trị tuyệt vời của hạnh phúc.

Bình luận về câu chuyện nhặt vợ, không hiểu sao lại có một cụm từ rất quan trọng của kim uni mà nhiều người có xu hướng bỏ qua. đó là kết thúc của câu chuyện “trong tâm trí tôi, tôi vẫn nhìn thấy những người đói và những lá cờ đỏ vẫy …”. một câu kết như vậy, chứa đựng biết bao sức nặng về mặt nghệ thuật và nội dung cho câu chuyện cổ tích. hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng là một dấu hiệu rất mới của một sự thay đổi lớn của xã hội, có ý nghĩa quyết định với sự thay đổi của toàn bộ số phận con người. đây là điều mà các tác phẩm văn học hiện thực giai đoạn 1930 – 1945 không thấy được. số phận con người trong văn học hiện thực đồng nghĩa với sự bế tắc. nền văn học mới sau cách mạng tháng Tám đã đặt câu hỏi và giải quyết vấn đề số phận con người theo một cách khác, lạc quan hơn, hy vọng hơn.

Diễn biến tâm lý ở bộ tứ có phần phức tạp hơn so với nhân vật của tràng giang đại hải. Nếu ở người con trai là niềm vui làm chủ, tâm lý phát triển theo chiều thẳng đứng phù hợp với một chàng trai đang tràn đầy hạnh phúc thì ở người mẹ, tâm lý vận động lại rạo rực với những cảm xúc, lòng trắc ẩn trong chính những gì đã qua. đã sống. và ông già nhân từ. cũng giống như những đứa trẻ, tâm lý bắt đầu của bà lão là sự bất ngờ. cậu con trai ngạc nhiên vì điều gì đó anh ta đã biết, và người mẹ ngạc nhiên vì điều gì đó mà anh ta dường như không hiểu. Cô gái xuất hiện tại nhà anh ta trong phút đầu tiên là một hiện tượng kỳ lạ.

Trạng thái ngạc nhiên của bà lão trở nên sâu sắc hơn với một loạt câu hỏi: “tại sao lại có một người phụ nữ trong ngôi nhà đó? Người phụ nữ nào đang đứng ở đầu giường của con trai mình? Đó là cái gì? và sau đó” ôi thôi thế nào? đó là “trái tim của một người mẹ có con rất nhạy cảm với nó, vậy tại sao kim uni lại để nhân vật người mẹ bối rối lâu như vậy hơi quá, một chút” kịch “trên mũi kim? nhà văn dong dong không quen đặt ra đây là nỗi đau của nhà văn: chính nỗi đau khổ của hoàn cảnh làm mất đi sự nhạy cảm đó ở người mẹ.

nếu trong tràng, ngạc nhiên đi thẳng đến vui mừng, sau đó là lão bà, tâm lý diễn biến càng thêm phức tạp. sau khi hiểu ra mọi chuyện, bà cụ “lặng lẽ cúi đầu”. im lặng nội tâm. đó là cảm giác buồn bã, lo lắng và hoang mang. tình mẹ bao dung đến nhường nào: “… liệu họ có thể cho nhau ăn và sống sót qua cơn đói này không?”. trong từ “họ” người mẹ đã chuyển từ yêu thương con trai mình sang yêu thương con dâu. trong từ cúi đầu, một người mẹ đón nhận hạnh phúc của con mình thông qua kinh nghiệm sống, với cái giá phải trả của cuộc sống nặng nề, với hoàn cảnh sâu sắc, không giống như một đứa trẻ nhận hạnh phúc bằng nhu cầu, bằng ước mơ thiêng liêng.

rồi tình yêu chìm vào lo lắng, hình thành trạng thái tâm lý day dứt dai dẳng. tác giả tập trung vào những suy nghĩ của người mẹ: nghĩ về tình mẫu tử không trọn vẹn, nghĩ về ông lão, nghĩ về cô con gái út, nghĩ về nỗi khổ của bản thân, nghĩ về tương lai của mình… cô gom bao nhiêu sự quan tâm và yêu thương trong một bình dị. câu nói. : “Bây giờ chúng ta sắp kết hôn, tôi rất xin lỗi …” trong những bộn bề của nỗi buồn và lo lắng, niềm vui của người mẹ vẫn đang cố gắng tỏa sáng. thấm thía, kim phượng để lại đó là thứ ánh sáng huyền ảo tỏa ra từ … một nồi cám yến. nghe bà mẹ nói: “chè đây – bà cụ bưng ra bát – chè đây, ngon lắm”. từ “ngon” này phải được cảm nhận theo một cách đặc biệt.

Xem Thêm : Ý nghĩa chi tiết bát cháo hành của Thị Nở – Trường THPT Thành Phố Sóc Trăng

Đó không phải là cảm xúc vật chất (cảm giác về bát cháo cám) mà là cảm xúc về tinh thần: ở người mẹ, niềm tin vào hạnh phúc của đứa trẻ đã biến ngọt thành đắng. Chọn hình ảnh nồi cháo cám, Kim Uni muốn phó mặc cho bản chất con người: trong bất kỳ hoàn cảnh nào, lòng biết ơn và hy vọng không thể bị tiêu diệt, con người muốn sống cho đời, và bản chất con người được thể hiện ở cách sống tình nghĩa và mong. nhưng kim uni không phải là nhà văn viết tiểu thuyết tình cảm. niềm vui của ông lão vẫn là niềm vui nghèo nàn, bởi thực tại vẫn phũ phàng với món cháo cám “đắng ngắt ngộp thở”.

Thành công của nhà văn là hiểu và phân tích được những trạng thái tâm lý khá tinh tế của con người trong một hoàn cảnh đặc biệt. Biết vượt lên hoàn cảnh vẫn là một nét đẹp tinh thần của người nghèo. tính ưu việt đó tạo nên nội dung nhân đạo sâu sắc và độc đáo của vở kịch. thông điệp của kim uni là thông điệp mang ý nghĩa nhân văn. trong cuốn tiểu thuyết nổi tiếng đanh thép như thế này, nhà văn người Nga colay ostropsky đã để nhân vật paven coocsaghin suy nghĩ: “hãy học cách sống ngay cả khi cuộc sống trở nên không thể chịu đựng nổi”. Vợ Nhặt Là một bài hát về lòng nhân đạo của một người đàn ông nghèo “biết sống” làm người trong hoàn cảnh nghèo khó.

thông điệp này đã được kim uni chuyển thể thành một câu chuyện xuất sắc với cách lắp ghép câu chuyện và kể chuyện độc đáo, đặc biệt là ngòi bút miêu tả tâm lý tinh tế khiến tác phẩm trở nên thi vị và hấp dẫn.

giá trị con người của người vợ được thu thập – mẫu 6

Năm 1945 đã trở thành một dấu son lịch sử không thể phai mờ đối với mọi người Việt Nam, thời điểm đó không chỉ đánh dấu sự huy hoàng của chiến thắng phát xít, thực dân và lật đổ chế độ Việt Nam mà 1000 năm phong kiến. đưa nước ta trở thành một nước tự do và dân chủ. đó cũng là thời kỳ ghi lại những đau thương, mất mát của dân tộc ta bị giặc ngoại xâm. Sự bóc lột dã man, tàn bạo của bọn thực dân phát xít và phong kiến ​​tay sai đã đẩy hơn hai triệu đồng bào ta chết đói. Trong hoàn cảnh đó, nhà văn Kim Lân đã tạo ra tình huống đi tìm vợ. tình huống này vừa để tố cáo tội ác của bọn bóc lột, vừa thể hiện sự cảm thông đối với nỗi thống khổ của con người, vừa thể hiện niềm tin vào con người: “cuộc sống dù có đau thương đến đâu thì con người vẫn là con người, vẫn thể hiện tình thương yêu đùm bọc lẫn nhau, Họ vẫn chưa hết khát khao hạnh phúc, tôi vẫn hy vọng vào một tương lai tươi sáng ”. đó chính là giá trị nhân đạo của tác phẩm.

trước hết, chúng ta phải hiểu rằng giá trị nhân đạo là giá trị cơ bản trong một tác phẩm văn học chân chính, nó được tạo nên bởi tình người, sự đồng cảm sâu sắc với nỗi khổ của con người, biết trân trọng và trân trọng những vẻ đẹp của con người hơn thế nữa là niềm tin vào khả năng nâng. vở kịch “nhặt vợ” đã thể hiện niềm cảm thương cho cuộc đời bi đát của những người nghèo khổ trong nạn đói. nạn đói được so sánh với một trận lụt kinh hoàng. phố xá tối tăm và hoang tàn: “đói đi như ma”, “không khí còn nồng nặc mùi ẩm mốc của rác và mùi khét của xác người” và đặc biệt hơn cả là âm thanh của những hình ảnh đau thương của nạn đói được tác giả tố cáo. tội ác của bọn thực dân phát xít và phong kiến ​​tay sai đã đẩy con người đến bờ vực của cuộc đời, khiến nhiều người phải chết trong đói khổ.

Tác phẩm còn đi sâu khám phá, nâng niu và trân trọng khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của con người. đàn tràng luôn khát khao hạnh phúc, ẩn sau hình ảnh một người đàn ông gan lì, chỉ biết lao động là một con người cũng khát khao yêu thương. trong tình huống kéo xe hàng, anh vẫn pha trò để vui đời, anh đùa rằng nếu có người đẩy xe với mình thì anh sẽ tự đãi mình một bữa xôi chả giò. Cứ tưởng chỉ là trò đùa ngớ ngẩn mà cô ấy ra đẩy, sau một hồi ăn hết hai chảo bánh thì người phụ nữ đó theo về làm vợ anh. anh cũng nghĩ đến cái đói khủng khiếp, liệu anh có thể vượt qua nó và thêm một người vợ, nhưng “tsk”. niềm khao khát hạnh phúc đã khiến anh vượt qua cơn đói của cái chết sắp tới. trên đường về nhà, gương mặt anh ấy vui một cách kỳ lạ.

thậm chí kim uni còn đưa tình huống của câu chuyện lên cao trào bằng cách miêu tả sự ngạc nhiên của khán giả. chính anh cũng không ngờ cuộc hôn nhân của mình lại dễ dàng như vậy, chỉ với bốn đĩa bánh mà thành vợ chồng. nên khi đưa vợ về nhà, anh vẫn ngỡ ngàng khi thấy vợ ở giữa nhà. Đến bây giờ anh vẫn băn khoăn: “vậy là anh ấy đã có vợ rồi…”. sáng hôm sau, anh thấy tay vợ đã dọn dẹp nhà cửa từ lâu. anh ngạc nhiên là anh đã có vợ cho đến ngày nay, anh vẫn ngạc nhiên như chưa có. điều đó còn thể hiện ở ý thức bám trụ rất mãnh liệt thể hiện ở nhân vật người vợ nhặt. chỉ có một bản án tầm thường mà anh chấp nhận nếu không có người đàn ông xa lạ này làm vợ anh, coi thường cả ý thức danh dự và nhân phẩm của anh.

Không chỉ vậy, Kim Uni còn đi sâu vào ý thức vun đắp cuộc sống gia đình của mỗi nhân vật. với đàn tràng, anh nhận ra trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với hai người phụ nữ của gia đình. ngày hôm sau tính cách của nhân vật hoàn toàn thay đổi trở nên tử tế, chỉnh tề “nhà cửa ruộng vườn hôm nay đều quét dọn sạch sẽ ngăn nắp. Mấy bộ quần áo rách như tổ đỉa vẫn còn chạy tung tăng, mười mấy năm ở góc nhà bọn họ đã thấy bọn họ đem nhà để.” ngoài hiên Vẫn còn hai cái thùng nước phơi dưới gốc ổi đầy nước Đống mùn kéo dài qua hành lang hát sạch ”. Đó là sự thay đổi đáng kinh ngạc từ thị trấn và cảnh quan đến ngôi nhà vào sáng hôm sau. còn bà cụ tạo thêm niềm tin cho con cháu về những dự định tương lai, gà trống nuôi con, khuyên con cháu giàu khó ba đời, nếu ăn nên làm ra thì con cháu sau này sẽ sung sướng. và cuối cùng, có lẽ tình yêu của bà dành cho con trai và con dâu được thể hiện rõ nét nhất qua hình ảnh bát cháo yến. Mẹ già không còn gì trong hoàn cảnh này, vội vàng chạy vào bếp với vẻ mặt hớn hở bưng nồi cháo cám ra ăn.

kim lân đã soi sáng cho gia đình bà cụ niềm tin và hy vọng vào sự đổi mới. Trong bóng đêm đau thương, trái tim đẹp đẽ của người mẹ vẫn tỏa sáng. dẫu biết rằng lấy chồng là chuyện không nên xảy ra vào thời điểm đói khát như thế này nhưng bà cụ vẫn vui vẻ đồng ý “thôi thì phải có duyên với nhau thì mới vui”. Kim lan đã khéo léo tìm ra cho bà cụ đau khổ một câu nói vừa ẩn chứa sự từng trải của người già, sự bao dung của người mẹ, vừa là quan niệm cao đẹp của người Việt Nam: “dù cay đắng, khổ cực, luôn đón nhận mọi người, luôn kính trọng mọi người “. để rồi khi nhìn lại người vợ nhặt, bà không còn thấy bà là người xa lạ mà đã trở thành người thân quen: “bà già nhìn bà xót xa, nay đã là con dâu, người dưng. con trong nhà ”. Mẹ đón một người phụ nữ lạ, nhận cô là con gái, họ hàng và con dâu.

Ông cũng nuôi dưỡng niềm tin và hy vọng của các con: “Làm sao mà biết được ?:“ Mình làm mấy mâm cơm cũng được, nhưng nhà mình nghèo, không ai nhận cả. Tôi rất vui vì bạn đã rất hòa hợp với nhau. Tôi đói năm nay. Các con sắp cưới ngay rồi, mẹ xin lỗi “. Những lời tâm huyết, bao dung của người mẹ đã làm nguôi ngoai nỗi tủi nhục của người vợ. Chỉ một câu nói đó thôi cũng đủ để một người phụ nữ về nhà ngẩng cao đầu bước vào ngôi nhà này như vợ và con dâu.

nếu trong vở kịch “chí phèo”, “lão hạc” nhân vật chính muốn giữ nhân phẩm thì phải chết, cái chết tuy đau đớn nhưng lại khiến lòng họ thanh thản hơn. hay chú gà trống ở bãi ngô “tắt đèn” đang lâm vào cảnh túng quẫn vì thuế cao và phải bán sữa cho một cụ già 80 tuổi và cuối cùng chạy quanh quẩn trong bóng tối không biết chuyện gì sẽ xảy ra … trước đó các tác phẩm cách mạng tháng 8 nhiều lần vẫn chưa tìm ra lối thoát cho các nhân vật của nó.

không chỉ vậy, kim uni còn thể hiện niềm tin sâu sắc vào nhân phẩm và lòng nhân từ của con người. Nhân vật của Tràng chỉ là một công nhân trẻ làm thuê để nuôi mẹ nhưng anh sẵn sàng chi tiền cho một người phụ nữ xa lạ với bốn tô bánh. anh hào phóng, rộng lượng và rất chu đáo với mẹ già. sống có tinh thần trách nhiệm. niềm tin ấy còn được thể hiện qua việc nhặt vợ, sự chuyển mình kể từ khi vào nhà. Nếu trước đây, người phụ nữ này cay đắng và tròn trịa, thì bây giờ cô ấy dịu dàng và cư xử đúng mực, nhã nhặn. khi gặp bà cụ chào hỏi, e thẹn. sáng hôm sau, cô ấy đang dọn dẹp nhà cửa. nhất là trong bữa sáng, dù là bát cháo cám nhưng nó vẫn vào miệng dù đôi mắt hơi nheo lại, vì không nỡ bỏ đi niềm vui của người mẹ già khốn khổ ấy. có lẽ biểu hiện sâu sắc của niềm tin vào cuộc sống phải qua bà cụ. bà hết lòng yêu thương con cháu, thương con dâu trong hoàn cảnh này. Không những vậy, bà còn băn khoăn không biết con trai và con dâu sẽ sống ra sao trong những tháng sắp tới. nhưng vượt qua hoàn cảnh đang xảy ra, anh luôn tạo niềm vui trong gia đình bằng những lời khuyên.

Với cái nhìn mới mẻ về cuộc sống của người dân sau Cách mạng Tháng Tám, Kim Uni đã vẽ nên một bức tranh hiện thực về nạn đói và cái chết bi thảm của những năm này. từ đó thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc góp phần tạo nên thành công cho tác phẩm. từ đó chúng ta có thể thấy được chiều sâu so với các tác phẩm văn học hiện thực trước đây.

giá trị con người của người vợ được sưu tầm – mẫu 7

Xem thêm: 10 tác phẩm văn học thiếu nhi kinh điển của VN – VnExpress Giải trí

“nhặt vợ” là truyện ngắn độc đáo có một không hai của kim lân. truyện kể về một người đàn ông hàng xóm nghèo tìm vợ khi có nạn đói khủng khiếp, người đói đầy đường. truyện phản ánh nỗi đau khổ và khát khao được sống, hạnh phúc của những người nghèo khổ, từ đó nói lên số phận của những con người trong xã hội cũ, đêm trước khi cách mạng bùng nổ. giá trị lớn nhất trong truyện “nhặt vợ” là giá trị nhân đạo.

Từ trước đến nay, trong văn học Việt Nam hiện đại, chưa có tác phẩm nào viết về nạn đói năm Ất dậu, 1945, viết hay và xúc động như truyện “nhặt vợ” của Kim Lân. nguồn cảm hứng của con người dạt dào từ đầu truyện đến cuối truyện. truyện “nhặt vợ” đã phản ánh nỗi cơ cực của nhân dân ta và người nghèo năm dậu. nhóm người từ các vùng phía Nam Nam Định, Thái Bình cùng đội chiếu ôm đến khi thành “xám như ma” nằm rải rác khắp các gian hàng trong chợ. những con quạ đen đậu trên ngọn cây và bay “như những đám mây đen” trên bầu trời. mùi xác người lan tỏa khắp chợ. người đói như xác lá. mỗi buổi sáng với ba hoặc bốn xác chết nằm bên vệ đường!

người đói và người đói không đơn độc! hai mẹ con, ngôi nhà “trống không chống đỡ” trong khu vườn đầy cỏ dại. của ngôi nhà là một màn hình bị hỏng. xoong nồi, bát đĩa quần áo vứt bừa bãi trên giường, nền nhà. tài sản ấy đã khiến nàng dâu mới thất vọng thở dài “. bà lão” mặt buồn thiu “. ông già” bước đi mỏi mòn “, đầu” khẽ ngả về phía trước “với bao nỗi lo toan.” Những đứa trẻ xóm chợ, trước họ. đã quá nghịch ngợm, giờ “chúng ngồi ủ rũ dưới lòng đường không nhúc nhích” trước cửa hàng tỉnh lẻ mấy chị “ngồi”. anh chị em ruột thịt, không cùng quê.

cơ thể nhăn nheo đáng thương. quần áo “tả tơi như tổ đỉa”. hiển thị “rất mỏng”, mặt lưỡi cày “xám xịt”, chỉ nhìn thấy hai mắt. con đường phía trước của con người là vực thẳm, là đói khát. cái đói đã cướp đi mọi thứ của anh. nghe loạt nói “muốn ăn gì cũng được”, khi anh vỗ túi khoe “bố con nhà người ta” thì hai con mắt “sưng vù” của anh lập tức “sáng lên”. tình trạng ăn một lúc bốn bát bánh, có vẻ thô lỗ, nhưng không đáng trách, ngược lại, rất đáng tiếc. anh ta đói, anh ta đã nhịn ăn nhiều ngày, anh ta cần ăn, anh ta cần sống. Kim Lân thật nhân hậu khi nói về nhân dân, khi nói về cái đói và cái khát của người nghèo.

xóm trọ về chiều càng “dột nát, xiêu vẹo”, những ngôi nhà “canh, tối”, những gương mặt “hốc hác”. bữa cơm đón bạn gái mới của cụ già là một nồi cháo cám. một cô gái ở giữa nạn đói giống như một thứ dùng một lần mà có thể “nhặt được”. chàng cưới không bằng cau, không lá trầu, không có “quýt tám tháng, quýt cưới năm tháng, cau đèo bòng”. khi về nhà chồng, đứng trước mặt mẹ chồng, nàng dâu mới “khép nép”, “ngửa mặt vỗ lưng cho ông áo rách”. trong đêm tân hôn, tiếng “gào thét” của những gia đình có người mới bị bỏ đói nghe thật chói tai, đau đớn. sáng sớm, tiếng trống khai thuế vang lên theo từng tiếng “cuồng phong, ào ào”.

Bằng những chi tiết rất chân thực và tiêu biểu, Kim lân đã thể hiện sự xót thương, lo lắng cho số phận của những người nghèo khổ trước đại nạn, nạn đói khủng khiếp. quý hơn, Người đã đứng về phía nhân dân, về phía dân nghèo, vạch trần và tố cáo tội ác của bọn Nhật, Pháp, bắt chúng nhổ lúa, trồng đay, bắt chúng phải nộp thuế, bóc lột nhân dân ta đến tận xương tủy. gây ra nạn đói chiến tranh năm dậu khiến hơn hai triệu đồng bào ta chết đói.

Truyện “nhặt vợ” đã thể hiện tấm lòng trân trọng hạnh phúc của con người. Cách kể của Kim Lân rất hóm hỉnh về tình huống nhặt vợ và hoàn cảnh xoay quanh cô bạn gái mới quen. chỉ vài câu “vớ vẩn vớ vẩn”, bộ ba 4 bát bánh bèo mà lại nhặt được vợ! anh nhặt được vợ nhưng cũng phải đánh liều: “thế này, không có đâu!”. Anh cho rằng lúa này tự kiếm ăn còn khó, vẫn “đậu”. Trên đường về nhà xin phép mẹ già, người vợ mới tìm thấy của anh mừng như mở cờ trong bụng. Kim Lân miêu tả ánh mắt và nụ cười vụng về của người con trai để làm nổi bật niềm hạnh phúc mới tìm được của người vợ. dấu hai chấm “phở không bình thường”. anh “cười toe toét”. đôi mắt “lung linh và tỏa sáng”. đôi khi khuôn mặt của anh ấy đang “chiến đấu với chính nó”.

Hình ảnh cây tràng và chiếc chợ dạo cùng nhau trông thật bắt mắt. bày ra hai tiếng dầu rồi phì cười, thị “tát” cho nàng câu ngôn tình: “khỉ gió”. hạc cổ tắt đèn cậu bé, bị thị mắng: “nhanh thế. Đồ bẩn thỉu!”. những tình tiết này rất tiết lộ rằng tình yêu mạnh hơn cái chết. cảnh mẹ chồng gặp con dâu mới thật cảm động. vượt qua hủ tục ăn hỏi, cưới xin không mấy mâm cỗ, cụ bà thương người đàn bà xa lạ, thương con, thương thân, chấp nhận lấy một người bạn gái mới: “thôi thì đã có phận ở đời với nhau, em cũng vậy. hạnh phúc. “

Tình yêu của ông thật bao la, ông cho rằng “người ta nếu gặp bước khó khăn, đói khổ này thì chỉ có thể lấy vợ cho con mình. Chỉ con mình mới có vợ …”. dịu dàng và trìu mến gọi cô dâu mới là “con trai”. lòng đầy xót xa, bà nói với hai con: “Năm nay đói lắm rồi, lấy nhau lúc này buồn lắm …”. qua đó hiểu sâu sắc hơn lý lẽ sống. những người nghèo lao động đối mặt với thiên tai, đã tin cậy nhau, sẻ chia yêu thương, sẻ chia vật chất để vượt qua mọi thử thách, hướng về ngày mai với niềm tin và hy vọng: “ai giàu ta, ai khó ba đời.”. độc giả cảm thấy rằng ngọn đèn “vàng xỉn” chiếu từ trần căn lều đêm tân hôn của hai vợ chồng là ngọn hải đăng của hy vọng và hạnh phúc.

bữa cháo cám đón nàng dâu mới là một chi tiết mang giá trị nhân đạo tiêu biểu nhất của truyện “nhặt vợ”. bà cụ gọi nó là “phomai … ngon”. ông tự hào nói với hai con trai của mình, “xóm chúng tôi thậm chí không có cám để ăn.” qua bữa cháo cám, anh kể đủ chuyện vui vui sau này. cảnh gia đình mẹ con vô cùng “ấm êm” hạnh phúc sau này, vợ chồng, con cái được thưởng thức những bữa cơm ngon thịt, cá nhiều hơn nhưng không bao giờ quên được bữa cháo cám sáng hôm ấy. vị cháo cám tuy “đắng” mà ngọt, chan chứa bao tình thương của mẹ. Kim Lân sống gần gũi với người dân quê, hiểu sâu sắc tâm lý, tình cảm của họ. ông đã làm cho các thế hệ mai sau biết được những cay đắng của đời cha ông, cảm nhận được hương thơm của cuộc đời, của tình yêu thương của lòng mẹ, … mà không một món ngon nào có thể so sánh được. ?

kim lan đã bày tỏ những cảm xúc hay và ấm áp nhất về sự đổi đời của những người thợ cày Việt Nam. mừng vì đã có vợ, lũ trẻ tinh nghịch reo lên: “ông chồng vui tính”. với cuộc hôn nhân, những người dân trong chợ cảm thấy “có một cái gì đó rất lạ và mát mẻ đang thổi vào cuộc sống tối tăm và đói khổ của họ”. bà lão mừng rỡ vì con trai có vợ, bà như thiếu nữ, nhẹ nhõm, tươi tắn “rạng rỡ hơn”. vợ anh trở thành một người phụ nữ “có chừng mực”. Nó giống như bước ra từ một giấc mơ. anh tỉnh dậy với cảm giác “mềm mại bồng bềnh”. hạnh phúc đến không ngờ. việc anh ấy có vợ sau một ngày đêm nhưng “anh ấy vẫn ngỡ như chưa có”.

sự thay đổi của cuộc sống cũng được phản ánh trong cảnh quan. mẹ và vợ dậy sớm quét dọn nhà cửa, ruộng vườn. tiếng chổi quét sàn. hai thùng chứa nước đã được đổ đầy nước. Những đống mùn phủ kín các hành lang đã được dọn dẹp sạch sẽ. mẹ chồng, con dâu mới, con trai ai cũng muốn góp sức mình vào việc sửa sang mái ấm gia đình hạnh phúc. họ không nghĩ đến cái chết mà nghĩ về sự sống, hạnh phúc và sự đổi đời. cảm thấy mình đã “thành người”, cảm thấy mình phải có bổn phận lo cho vợ con sau này

một chi tiết rất thú vị là sau khi nghe tiếng trống khai thuế, họ báo rằng ở thái nguyên, bắc giang, dân không nộp thuế, người ta phá kho thóc của Nhật để chia cho dân đói. và nhìn thấy trong tâm trí anh ta “một lá cờ đỏ đang vẫy”. cuộc cách mạng sắp tới. cơn đói sẽ bị loại bỏ. hình ảnh lá cờ đỏ ở cuối truyện không chỉ nêu bật giá trị nhân đạo mà còn tạo nên âm hưởng lạc quan nổi bật, như một điềm báo về một ngày mai ấm no, hạnh phúc.

<3 có ai tìm được vợ đông tây kim cổ chưa? nạn đói do người Nhật và người Pháp gây ra đã cướp đi sinh mạng và nhân phẩm của con người. một chân lý đã được khẳng định: khát vọng tình yêu và hạnh phúc, khát vọng sống mạnh hơn cả cái chết. hương vị ngọt ngào của cuộc sống và tình người ấm áp đã toát lên giá trị nhân đạo của truyện “nhặt vợ” mà chúng tôi trân trọng.

giá trị con người của người vợ được thu thập – mẫu 8

tác phẩm “nhặt vợ” của nhà văn kim lân mang giá trị nhân đạo sâu sắc qua một tình huống có một không hai trong lịch sử đó là tình huống tìm vợ. tác giả cho chúng ta thấy cuộc sống tăm tối của người dân lao động trong nạn đói lịch sử năm 1945 và những khao khát mãnh liệt của họ. giá trị nhân đạo là giá trị tạo nên thành công của một tác phẩm văn học chân chính. nó được tạo nên bởi sự đồng cảm sâu sắc của tác giả với các nhân vật của mình. những người nông dân nghèo, nghèo khó trong cuộc sống.

Tác phẩm bộc lộ rõ ​​những tình cảm đáng thương đối với kiếp người bi thảm trong nạn đói lịch sử giết chết hai triệu người. Thông qua đó, tác giả muốn tố cáo tội ác của thực dân Pháp đã gây ra nạn đói kém và làm cho nhân dân ta khốn khổ. Câu chuyện được viết tại một khu dân cư, tất cả những người từ khắp nơi trên thế giới cùng nhau đến sống trong một khu định cư mới, trong cảnh nghèo nàn cùng cực của cảnh vật xung quanh và những ngôi nhà lụp xụp. trên đường vào làng, ánh sáng dường như vô cùng mờ ảo, len lỏi qua những người đi lại như những bóng ma. xác những người chết chưa được chôn cất nằm trải dài, bên cạnh những người sống vật vờ không còn chỗ ở, mùi xác chết bốc lên, rồi từng đàn quạ kéo đến khóc lóc thảm thiết. Ngoài ra, tiếng trống đánh thuế vang lên, lũ trẻ ngồi bệt ở góc phố không nhúc nhích vì đói và mệt không còn sức mà chạy.

Trong hoàn cảnh nghèo khó ấy, người ta lại tìm thấy một con người xấu xí như nhân vật, hai mắt nhỏ, hàm rộng, thô kệch làm nghề lái cần cẩu, nghèo khổ sống cảnh góa bụa, mồ côi. giá trị nhân đạo của các câu chuyện còn thể hiện ở niềm tin sâu sắc rằng các nhân vật trong vở kịch tin tưởng vào tương lai và sự thay đổi cuộc đời của họ. nhân vật anh hùng có vẻ ngoài xấu xí nhưng ẩn chứa sự cảm thông, yêu thương người khác, luôn đùm bọc, giúp đỡ những người có hoàn cảnh khốn khó.

hoàn cảnh éo le nhưng vẫn hào phóng cho cô bốn bát bánh chưng, rồi lần sau gặp anh, cô cũng có vẻ gầy hơn, áo tơi tả cầm theo một cái thúng con. Có lẽ từ lúc đó, trong lòng cô nảy sinh lòng trắc ẩn, muốn cho người phụ nữ kia trông cậy vào mình và cả hai cùng trông cậy vào nhau, cùng cố gắng vượt qua cơn đói này. đó là nhân loại trong tràng con người. trong lúc nạn đói hoành hành, người chết như lá mục, thêm một người nữa là thêm một miệng ăn, nhưng đàn tràng vẫn sẵn sàng cưu mang nàng, đưa nàng về nhà chung sống.

Mẹ của ông lão còn là người có tấm lòng nhân đạo, nhân đạo. cô ấy yêu tôi rất nhiều. bà lão xuất hiện với dáng già lưng còng, mắt mờ, nhìn từ xa đã thấy một người phụ nữ trong nhà mà bà cho là giống con gà. nhưng khi đến gần nhà, thấy người phụ nữ kia đang chào hỏi với bạn, rồi nghe ông già giới thiệu “đây là nhà tôi”, bà cụ không còn chần chừ gì nữa. Tôi cảm thấy hơi tiếc cho số phận của anh ấy và của con trai anh ấy, người ta lấy nhau khi mọi việc suôn sẻ còn tôi lấy chồng trong lúc nghèo khó và túng thiếu. nhưng rồi anh cũng vui vẻ chấp nhận rằng anh đã suy nghĩ rất tích cực “nếu gặp hoàn cảnh khó khăn như thế này thì người ta chỉ có con chứ con mình mới có vợ”. bà cụ nhìn mọi thứ rất rõ ràng và tích cực. anh tìm thấy niềm vui nhiều hơn là nỗi buồn khi anh trai tìm được vợ trong thời kỳ đói kém.

Chính người mẹ khốn khổ này đã luôn tạo ra môi trường hạnh phúc cho gia đình để con trai và con dâu được hạnh phúc và phấn đấu vượt qua giai đoạn nghèo khó này. bà cụ tội nghiệp ấy luôn động viên con trai và con dâu. Không ai giàu, không ai khó ba đời, chăm chỉ làm ăn, biết đâu nhờ ông trời thương cho nên mới ổn. Sáng hôm sau, gia đình chị từ khi lấy nhau nhà cửa đã thay đổi hoàn toàn, vườn tược sạch cỏ dại, mọi thứ thực sự là một gia đình dù còn nhiều nghèo khó đơn sơ. nhưng nó vẫn cho thấy rằng đó là một gia đình, ấm áp và chào đón. trong bữa cơm gia đình, hình ảnh nồi cháo cám đã ám ảnh người đọc rất nhiều, nhưng trên mâm cơm đạm bạc nghèo nàn ấy, mọi người đều nói về tương lai, nói về chuyện vui. họ cùng nhau chờ đợi một cuộc sống mới.

giá trị nhân văn của công việc làm nên niềm tin ở những người lao động nghèo khổ, thiếu thốn … đó là bản năng sống, là khát vọng hạnh phúc của mỗi con người. Nó thể hiện tấm lòng nhân đạo, nhân đạo của tác giả Kim Lân khi đồng cảm với người nông dân và nhân vật của ông.

giá trị nhân văn của người vợ được sưu tầm – mẫu 9

Vợ nhặt nằm trong tuyển tập Những con chó xấu xí, xuất bản năm 1945. Đây là tác phẩm xuất sắc nhất trong sự nghiệp của ông, đồng thời cũng là một trong những tác phẩm tiêu biểu viết về đề tài người nông dân và thể hiện đầy đủ quan điểm của tác giả. của tầm nhìn. tác phẩm thấm đẫm giá trị hiện thực và nhân đạo.

trước hết, giá trị hiện thực của tác phẩm được thể hiện qua việc Kim uni đã tái hiện thành công nạn đói khủng khiếp năm 1945. nạn đói năm 1945 đã làm cho hầu hết người dân chết chóc. Kim uni đã tập trung toàn bộ ngòi bút của mình vào việc tạo ra bối cảnh và bầu không khí cho nạn đói đó. chết đói và chết chóc là đặc trưng trong bài viết của ông, nổi bật là tạo ra những ám ảnh ghê tởm. Ấn tượng về cái chết đói được tạo ra bởi nhiều yếu tố, nhưng ấn tượng nhất là thị giác, khứu giác và thính giác. Trong lĩnh vực hình ảnh, anh đã hai lần sử dụng những hình ảnh đáng lo ngại: cùng với người chết như những chiếc lá rụng, người sống vẫn sống như những bóng ma.

cái đói đã trở thành nỗi ám ảnh thường trực nơi đây, giữa sự sống và cái chết có một ranh giới vô cùng mong manh. nạn đói đã rút hết sinh mạng con người tạo thành những hồn ma lang thang. Ở khứu giác, không chỉ thấy cái chết đói trong văn Kim Lân mà còn ngửi thấy, đó là mùi xác người, mùi khét của những ngôi nhà cháy. và thính giác cũng là những ấn tượng kinh khủng. tiếng bầy quạ cất tiếng gáy, là tiếng khóc thê lương của những gia đình có người chết.

Không chỉ dừng lại ở đó, giá trị thực còn thể hiện ở tình trạng kinh tế của những người nông dân nghèo. Người đàn bà đói khát, thân hình gầy gò, mắt trũng sâu, vì đói, vì thức ăn, bà đồng ý loại bỏ ruột già một cách nhanh chóng. chính cái đói đã khiến người phụ nữ mất đi danh dự, sự nhút nhát vốn có của một người con gái nhưng lại trở thành kẻ nhu nhược, sẵn sàng đánh mất lòng tự trọng vì miếng ăn của mình. chỉ với vài bát đường mật và một lời nói suông, nàng chạy đến nhìn và cười, mất đi vẻ e thẹn, thân mật và đồng ý làm vợ của chú chó con khi chưa biết tính cách của chú và chú chó con là như thế nào. trong hoàn cảnh bị khủng bố bởi cái đói và cái chết, cô sẵn sàng bám vào mọi thứ để đảm bảo cuộc sống của mình. Những chi tiết được Kim Uni miêu tả cho thấy Vợ Nhặt Là một người nông dân khốn khổ, bị đẩy đến đường cùng nên nhân cách và lòng tự trọng đã bị tha hóa.

Lễ cưới của mỗi người là nghi thức trọng đại nhất trong đời, nhưng đám cưới của chàng trai họ Trương lại được diễn ra rất thiếu chỉn chu và thương tâm. bữa cơm đầu tiên của cô dâu mới là một nồi cháo cám đắng mà cả đám ăn không hết một lời. nhưng bên cạnh những điểm xám của hiện thực, ta còn thấy tác phẩm phản ánh một giá trị nhân đạo sâu sắc. trong bóng tối, khi cái đói ám ảnh mọi người, dường như mọi người chỉ quan tâm đến sự sống chết của bản thân, những người nông dân Việt Nam vẫn sẵn sàng cứu giúp những người có số phận bất hạnh hơn mình. Nó thể hiện rõ nét truyền thống yêu thương, đùm bọc của dân tộc ta “lá lành đùm lá rách”.

Tấm lòng nhân đạo của nhà văn được thể hiện trước hết ở lòng bao dung, tình mẹ con đối với vợ. Tuy có ngoại hình xấu xí nhưng anh lại có trái tim nhân hậu, yêu thương mọi người. Dù chỉ làm công việc tạm bợ, không có đất nhưng bà sẵn sàng mua thức ăn cho một người phụ nữ không quen biết. anh cảm thấy thương cảm cho người phụ nữ khi nhìn thấy hình dáng hoàn toàn tiều tụy của cô. và hơn hết, anh cũng đồng ý đón người phụ nữ về nhà làm vợ, mặc dù lúc đó anh có chút lo lắng. Cuộc sống hôn nhân của Trang không phải ngẫu nhiên mà đó là sự đi theo lý trí.

lần đầu tiên họ nhìn thấy nhau, lần đầu tiên họ nhận được sự chú ý, đó là nụ cười của một cô gái. trong lần thứ hai, sự than thở khi người phụ nữ khiêu gợi trước đây đã biến mất, thay vào đó là một người đàn ông quần áo rách như tổ, hoàn toàn mỏng manh. Sự thay đổi đột ngột ấy đã khơi dậy lòng thương cảm, với bản tính lương thiện và sự đồng cảm của những người cùng cảnh ngộ, anh nhanh chóng quyết định đưa người phụ nữ ấy về nhà làm vợ. Quyết định nhanh chóng và bất ngờ đó vừa thể hiện niềm khao khát hạnh phúc, vừa thể hiện sự quan tâm, nghĩa cử cao đẹp của cô dành cho người phụ nữ đau khổ, bất hạnh hơn mình.

hôn nhân là bước ngoặt lớn của cuộc đời anh, chỉ với những cử chỉ rất đơn giản nhưng cũng đủ thể hiện sự trân trọng của anh đối với người vợ mà mình đã nhặt được. Anh cho cô ăn uống đầy đủ, mua một cái thúng nhỏ, sáng mai mua một ít dầu để đốt. Hành động mua hai xu dầu đó cũng thắp sáng một tương lai, một hy vọng mới cho hai vợ chồng. Đặc biệt, buổi sáng sau khi tôi kết hôn, đại tràng đã thay đổi hoàn toàn. cảm thấy trong người lâng lâng một niềm vui khó tả, khi lần đầu tiên được sống và cảm nhận được hạnh phúc gia đình. và hạnh phúc ấy đã làm thay đổi nhận thức của đàn tràng, thức tỉnh ý thức trách nhiệm đối với gia đình. nhận thức được vai trò cơ bản của mình, hãy cùng vợ và mẹ xây dựng cuộc sống mới.

Về phần mẹ cô, có một cô con dâu trong hoàn cảnh khó khăn này khiến bà rất ngạc nhiên, nhưng sau một lúc bất ngờ, bà đã hiểu ra tất cả. bằng tình thương con, sự đồng cảm với người vợ nhặt bất hạnh, ông hiểu rằng người ta chỉ lấy nhau khi bữa no, bữa no chứ không ai lấy vợ khi đói. nhưng cùng với tình yêu thương con, bà tự trách mình, tình mẫu tử mà không thể gánh được hạnh phúc cho con cái. Anh yêu em, quan tâm đến em nhiều như anh cảm thấy tiếc cho thân phận của người phụ nữ đó.

Ông không nhìn cô con dâu mới bằng ánh mắt đanh thép, chỉ trích mà bằng ánh mắt đầy cảm thông và bao dung: “Người ta có bước khó, cái đói, người ta cứ dắt con đi còn con tôi có một vợ ”. Như vậy, bà cụ không chỉ là hiện thân của tình mẫu tử cao cả, thiêng liêng mà còn là hiện thân của tình người ấm áp, bao dung, bà đã dang rộng vòng tay nhân ái để nâng đỡ, đùm bọc những hoàn cảnh khốn khó dù cuộc đời còn nhiều khó khăn.

Không dừng lại ở đó, giá trị nhân đạo của tác phẩm còn được nhìn ở góc độ Vợ nhặt. người phụ nữ này bị cái đói ám ảnh đến tận cùng, nhưng với khát vọng sống, cô đã cố gắng bám trụ đến cùng, dù phải chuyển sang thân phận của một người vợ nhặt. ý chí sống ấy thể hiện một trái tim khỏe mạnh, một ý chí sống kiên cường, bền bỉ ở người phụ nữ này. như vậy qua ba nhân vật người mẹ và người vợ nhặt được con lân vàng đã khẳng định lại lối sống nhân ái, tình cảm, vị tha của nhân dân ta. Không chỉ vậy, ở họ còn có một sức sống mãnh liệt, sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, nghèo khó.

Cuối cùng, giá trị nhân đạo của tác phẩm được thể hiện ở cuối bài với hình ảnh lá cờ đỏ phất phơ trong lời ăn năn của nhân vật. chắc chắn với tinh thần khỏe mạnh, yêu đời, vợ sẽ tham gia hoạt động cách mạng. hình ảnh lá cờ đó như một gợi ý về tương lai tươi sáng ở phía trước.

Với nghệ thuật thể hiện tuyệt vời, Kim Uni đã vẽ nên một bức tranh hiện thực và tàn khốc về nạn đói năm 1945, khi mạng sống của con người bị rẻ rúng một cách khủng khiếp. nhưng đằng sau bức tranh hiện thực đen tối ấy là ánh sáng của tình người, tình thương yêu, đùm bọc lẫn nhau giữa những người khốn khổ. sự kết hợp giữa hai giá trị hiện thực và nhân văn đã tạo nên thành công của tác phẩm.

Nguồn: https://truongxaydunghcm.edu.vn
Danh mục: Văn Học

Related Articles

Back to top button