Nghệ thuật ngôn từ trong tác phẩm số đỏ – KimContent

Tác phẩm số đỏ thuộc thể loại gì

Video Tác phẩm số đỏ thuộc thể loại gì

số đỏ là cuốn tiểu thuyết văn học góp phần làm nên tên tuổi và thành công của nhà văn vu trong chốn giang hồ. Nhắc đến số đỏ, chắc hẳn nhiều thế hệ độc giả vẫn còn nhớ đến những nhân vật được khắc họa một cách đầy châm biếm và trào lộng trong xã hội Việt Nam đầu thế kỷ 20. đặc biệt, nhà văn đã sử dụng nhiều tầng ngôn ngữ đối thoại phong phú, đa dạng để miêu tả gián tiếp đặc điểm, tính cách của những nhân vật này.

Bài viết này, tôi không có ý nói về nội dung, mà chỉ nói về lớp ngôn ngữ hỗn hợp, rất giàu tác phẩm.

về tác giả và tác phẩm

Vũ Trọng Phụng sinh ngày 20 tháng 10 năm 1912 tại Thị trấn Hào (nay là một thị trấn nghèo), huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên, nhưng lớn lên và mất tại Hà Nội.

là một nhà văn đa tài, ông đã để lại một khối lượng tác phẩm lớn ở nhiều thể loại: phóng sự, tiểu thuyết, truyện ngắn, chính kịch, dịch thuật. anh cũng là một trong những thanh niên Việt Nam đầu tiên được học tiếng Pháp và chữ quốc ngữ. có lẽ vì vậy mà ông luôn thần tượng văn hóa Pháp và thuộc lớp nhà văn tích cực truyền bá văn học bằng chữ quốc ngữ.

Cuốn tiểu thuyết màu đỏ được in lần đầu tiên dưới dạng sách vào năm 1938 và bao gồm 20 chương. nhiều nhân vật và câu nói trong công việc đã đi vào cuộc sống hàng ngày, ví dụ như câu “Biết rồi, khổ quá, nói mãi” của ông cố Hồng. tác phẩm cũng đã được dựng thành kịch, thành phim và các đoạn trích còn được dùng trong giảng dạy (“Hạnh phúc của một gia đình có tang” trong SGK Ngữ văn lớp 11 tập 1)

Thế giới của các ký tự số đỏ rất đa dạng và sinh động, có đầy đủ người tốt, kẻ xấu, thường dân, quan chức tham lam hay đạo đức giả, v.v. thông qua hệ thống nhân vật này có thể nói rằng vở kịch là một vở kịch. là bức tranh toàn cảnh về xã hội đô thị Việt Nam đầu thế kỷ 20, trước cách mạng tháng Tám với lối sống hỗn tạp “nửa ta, nửa ta”.

nhân vật chính là xuân – có biệt danh là xuân tóc đỏ, từ một tên đầu đường xó chợ, bị coi là giai cấp hạ lưu, bỗng chốc nhảy lên tầng lớp danh giá trong xã hội nhờ phong trào Tây hóa tiểu tư sản Hà thành lúc bấy giờ.

Hầu hết các nhân vật còn lại là họ hàng của ông cố Hồng, một ông già ngoài 60 tuổi, nghiện thuốc phiện nặng. gia đình ông cố bao gồm một số nhân vật như ông cố, bà. pho doan, mrs. chạng vạng, mr. và bà. văn minh, thưa cô. tuyet, mr. bạn cũng vậy, v.v. , doc front line, said horned,…

đặc điểm chung của ngôn ngữ trong tác phẩm

Nhà văn Nguyễn Khải đã gọi Số đỏ là cuốn sách vô tiền khoáng hậu và là “cuốn sách có thể làm rạng danh một nền văn học”. công việc đã rất thành công, trong đó có sự đóng góp rất lớn của lời nói.

Xem thêm: Top 18 Tác Phẩm Văn Học Nổi Tiếng Nhất Thế Giới Bạn Không Thể Bỏ Qua

Bối cảnh của truyện được lấy từ thực tế xã hội Việt Nam đầu thế kỷ 20. ngay bây giờ xã hội đầy ngu xuẩn, đồi trụy với quá trình phương Tây hóa và giải phóng nữ quyền khủng khiếp.

vu trong phung đã thể hiện rõ lòng căm thù và sự vu cáo của hắn đối với sự xảo trá, thối nát của xã hội cũ. Bằng cách xây dựng hệ thống nhân vật vô cùng sinh động, nhà văn cũng bộc lộ sự kém cỏi, xấu xa của các nhân vật thông qua hành vi ngôn ngữ của họ.

ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm giản dị, lời thoại thường ngắn gọn, thể hiện rõ cảm xúc, thái độ của nhân vật, vừa trần trụi, thô tục nhưng cũng giàu sắc thái biểu cảm. ngôn ngữ của nhân vật có một đặc điểm riêng không giống ai, nhưng lại rất phù hợp với tính cách, môi trường và hoàn cảnh sống của nhân vật.

Xem Thêm : Soạn bài Truyện Kiều – Phần 1: Tác giả Nguyễn Du | Soạn văn 10 hay nhất

Phong cách viết sáng tạo của tác giả là một trong những nét độc đáo của tác phẩm. lời văn vừa thấm thía, vừa trào phúng nhưng cũng rất hiện đại, khiến người đọc ngày nay cảm thấy dường như tác giả đang sống cùng thời với mình.

Trong tác phẩm, ngôn ngữ của tác giả được sử dụng dưới nhiều hình thức đối thoại, chẳng hạn như đối thoại đơn, đối thoại đôi, đối thoại ba và đối thoại đa số. từ thông tục, chửi thề, vỉa hè, thành thị, đến lười biếng, sính ngoại,… ngoài ra, người viết còn sử dụng nhiều thành ngữ rất hay và nhiều loại đại từ trong giao tiếp.

các lớp học ngôn ngữ bắt mắt tại nơi làm việc

lớp đại từ phong phú

Trong cuộc sống hàng ngày, người Việt Nam thường sử dụng nhiều đại từ để giao tiếp với nhau. các đại từ được sử dụng có thể là đại từ nhân xưng, danh từ thân tộc hoặc các danh từ khác.

Trong giao tiếp, người Việt Nam thường mượn các từ chỉ quan hệ gia đình, nghề nghiệp, chức vụ, học vị, học vị, … để xưng hô, đặc biệt là các từ chỉ quan hệ gia đình đại diện cho số đông và được sử dụng ở hầu hết các khía cạnh. của cuộc sống.

Như đã nói sơ qua về tuyến nhân vật và mối quan hệ của nó ở đoạn trước, chúng ta sẽ thấy từ chỉ đạo được sử dụng trong tác phẩm với số lượng khá lớn. từ xung thể hiện nhiều thông tin về nhân vật, như:

  • chỉ quan hệ gia đình: ông cố, ông, bà, mẹ, cha, chồng, bà, cô, chú, bác, vợ, anh, em, chú, bác, cháu, con trai, …,
  • chỉ tên: mr. phan, tuyết, mrs. hoàng hôn mr. xuan, mr. văn minh, …
  • cho biết chức vụ, nghề nghiệp: cô giáo xuân, bà ngoại, cảnh sát, bác sĩ, tài xế, cô giáo,…

Ngoài ra, từ xưng hô không chỉ dùng để gọi, xưng hô mà còn thể hiện thái độ, tình cảm của người nói đối với người mà mình đang giao tiếp. cách thể hiện thái độ nghiêm túc, tôn trọng như: anh, em, chú, bác, cô, ông, ông cố, ông cố nội, ông ngoại,…; thái độ mỉa mai, khinh khỉnh như: ông, nó, ấy, mày, mày, mày, thằng nọ, mẹ kia, lớp đó, … (thường xuất hiện trong các đoạn hội thoại của Xuân tóc đỏ với các nhân vật). khác); hoặc thái độ trìu mến, gần gũi như: tôi, cô, chú, mẹ, anh, chị, chú, con, cháu,…

Xem thêm: Tổng Hợp 400+ Câu Hỏi Đố Vui Văn Học Tháng 3, Tổng Hợp 400+ Câu Đố Vui Dân Gian Hay Nhất

Qua tác phẩm, chúng ta có thể thấy đại từ tiếng Việt rất phong phú, đa dạng nhưng có quy tắc, nguyên tắc sử dụng rõ ràng, không tùy tiện.

lớp từ thông tục, ngôn ngữ vỉa hè

Ngôn ngữ của các nhân vật trong cuốn tiểu thuyết số đỏ sử dụng rất nhiều từ chửi thề. lời thoại nảy sinh từ sự thông tục của nhân vật, được sử dụng nhiều tùy theo tính cách và hoàn cảnh của mỗi nhân vật. hầu hết trong số họ là những nhân vật xuất thân từ bình thường và ít học, trẻ mồ côi lang thang hoặc những người bán hàng rong.

đó là những từ chửi thề như: thằng chó già, thằng mẹ, thằng chó đẻ, thằng ngu, ngu như heo, thằng cặn bã chết, không phải nô lệ, thằng côn đồ, bà sơ, thằng con hoang, góa phụ độc ác, con ma báo sư tử, con đĩ, thằng khốn nạn, thằng khốn nạn, thằng lừa đảo, thằng khốn nạn, con đĩ, con mẹ mày …. và trong các câu thơ có những từ ngữ thô tục xuất hiện không hề ẩn ý: chó cái, chó cái, chó cái, chó già, chó đẻ.

những câu chửi thề rõ ràng xuất hiện trong hầu hết các cảnh xuân tóc đỏ với các nhân vật khác khi thanh xuân chưa bước vào thế giới thượng lưu phương tây. vô học, lang thang đầu đường xó chợ, anh ta hay thốt ra những từ tục tĩu như “đụ”, “quê quá”, “yêu bỏ mẹ”, “chết tiệt”, “rõ là thối”, “mẹ ơi”, “bỏ đi.” mẹ “,” con trai “,…

Thông qua loại ngôn ngữ này, nhà văn đã dựng nên hình tượng nhân vật sinh động thuộc tầng lớp bình dân bị xa lánh. họ thuộc tầng lớp thấp, ít học, và đều tham gia vào công cuộc cải cách xã hội, một sự kết hợp của xã hội phương Tây.

ngôn ngữ của họ là thứ ngôn ngữ giàu tính côn đồ, ít học, thô lỗ, không rõ ràng, ít sử dụng các biện pháp tu từ, v.v.

Điển hình là Xuân tóc đỏ, xuất thân mồ côi, không được học hành từ gia đình, phải lang thang ngoài chợ kiếm sống. chính môi trường đó đã tạo nên nhân cách, cách cư xử và lời ăn tiếng nói của Xuân. do đó, việc sử dụng những từ ngữ thông tục trong lời nói mùa xuân hàng ngày là bình thường và là đặc điểm của nhân vật.

Xem Thêm : Phân tích bài thơ Chiều tối (Mộ) của Hồ Chí Minh – Trường THPT Thành Phố Sóc Trăng

vũ trong phung rất táo bạo và triệt để sử dụng những từ ngữ thông tục mang tính châm biếm, hài hước để đả kích và vạch trần những thói hư tật xấu của xã hội bấy giờ.

ngoại ngữ, xen lẫn tiếng Pháp

Vì vở diễn lấy bối cảnh xã hội biến động, các nhân vật có lối sống “nửa tây, nửa ta”, do đó cũng sử dụng ngôn ngữ hỗn tạp, lai tạp giữa tiếng Pháp.

Phiên âm tiếng Việt là: xan xit: five – six, hoặc voa: au revoir – tạm biệt; gọi những thứ theo cách tây hóa: mannequin, corset, tennis …; sử dụng hỗn hợp các từ: cảm giác thời trang, nhưng vẫn ổn! Tôi có hai mối tình với quê hương và những cuộc tình … lốp, mát, nhạt nhẽo, hút kèn …

Xem thêm: Lão Hạc – Tác giả tác phẩm – Ngữ văn lớp 8

Qua sự pha tạp của tiếng Pháp trong lời nói của các nhân vật, nhà văn cho thấy sự lai căng lố bịch, sự sỉ nhục và Âu hóa của những người được gọi là tinh hoa nhưng thực chất lại là “học giả”.

Loại ngôn ngữ kết hợp này là thứ mang lại cho các con số bản sắc riêng biệt của chúng bằng cách phản ánh thực tế. đặc điểm này khiến tác phẩm trở nên gần gũi, rất gần với tiểu thuyết hậu hiện đại. tác phẩm châm biếm này của tác giả đã mang đến một cái nhìn đa chiều và tài tình về cuộc sống.

sử dụng nhiều thành ngữ

Ngoài việc sử dụng các lớp từ ở trên, nhà văn còn sử dụng rất nhiều thành ngữ trong lời thoại của nhân vật như: rùng rợn, ngu như heo, từ có nghĩa, tan, xoắn lưỡi bảy lần, tự ái, nhiều thối. thầy, cỏ thấp bé họng, kiến ​​thức cao sang, vâng lời một hai tướng, ba vâng bốn đức, con hư tại mẹ, cháu hư ở bà nội, nam nữ bất tương, môn phân lẫn nhau, nuôi nấng. truyện tranh thiếu nhi ong, bàn người, tranh cô đơn, …

Nhà văn đã sử dụng những thành ngữ này rất lỏng lẻo trong các cuộc đối thoại giữa các nhân vật. Mặc dù tỷ lệ sử dụng thành ngữ trong công việc không cao bằng các lớp thông tục, thông tục nhưng khi sử dụng trong đối thoại, những từ này cũng mang lại nhiều thông tin quý giá. Bằng cách kết hợp các thành ngữ này với các loại từ khác, cách sử dụng này sẽ nâng cao tính cách của mỗi nhân vật.

Ví dụ, khi nói về nhân vật chú phuộc, người con trai được bà xã chiều chuộng, chăm sóc khi mới ba tuổi, nhà văn đã sử dụng thành ngữ “trời ơi đất hỡi”. để bày tỏ thái độ của bạn. mức độ yêu thương, tôn trọng và vị trí của cô ấy. doan là dành cho anh ấy.

hay để nói về thái độ của bà cố vợ khi biết mùa xuân đã đi ngủ với tuyết, bà cụ đã dùng những câu thành ngữ “nuôi ong tay áo”, “rắc trấu” để mắng. người con trai văn minh của cô ấy vì anh ấy đã biến mùa xuân thành phương tây và sau đó anh ấy đã phạm tội với tuyết.

kết luận

giáo sư do duc hiểu nhận xét: “số đỏ là một hiện tượng ngôn ngữ rất độc đáo, nó đánh dấu thời đại”. Qua việc tìm hiểu các từ ngữ trong vở kịch, đặc biệt là các đại từ, từ thông tục, thành ngữ trong ngôn ngữ của nhân vật, chúng ta có thể thấy được phong cách tư tưởng và ngôn ngữ của nhà văn. ông đã xây dựng hệ thống từ ngữ nhân vật để chuyển tải một cách tự nhiên tư tưởng và chủ đề của vở diễn, tạo được ấn tượng mạnh trong lòng người đọc.

bài viết khá dài nhưng theo tôi vẫn chưa đủ để bàn sâu về các tầng ngôn ngữ trong tác phẩm. Mình hi vọng sẽ đủ sức để viết thêm nhiều chủ đề nhỏ nữa ^. ^

một số cuốn sách hay khác về chủ đề “từ” và “viết”, chẳng hạn như “ làm bạn với hình ảnh, làm tình với ngôn từ “, “ thôi miên bằng từ” từ ”hoặc“ nội dung hoặc nước bọt ”cũng đã được xem xét bởi kim. bạn có thể đọc thêm trong bài đánh giá sách hay .

cảm ơn bạn đã ghé thăm trang web này và đọc bài viết này (^. ^)

Nguồn: https://truongxaydunghcm.edu.vn
Danh mục: Văn Học

Related Articles

Back to top button