Phân tích Bài thơ tiểu đội xe không kính ngắn gọn (23 mẫu) – Văn 9

Phân tích bài thơ tiểu đội xe không kính

Top 23 Bài văn mẫu phân tích tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến sẽ giúp các em học sinh lớp 9 cảm nhận sâu sắc về lập trường tự hào, tinh thần dũng cảm bất chấp thử thách. sự nguy hiểm của những người lính ngồi sau tay lái.

qua đó, cũng cho ta thấy những khó khăn, gian khổ và ý chí quật cường của những người lính lái xe núi cao như thế nào. vậy mời các bạn cùng theo dõi bài viết dưới đây để có thêm nhiều ý tưởng mới, củng cố lại kiến ​​thức môn ngữ văn lớp 9, chuẩn bị tốt cho bài thi vào lớp 10.

phân tích lược đồ bài thơ Về tiểu đội không kính

a) phần giới thiệu

– Giới thiệu sơ lược về tác giả pham tien du: pham tien du (1941 – 2007) là nhà thơ lớn với nhiều sáng tác, trưởng thành trong đội ngũ nhà thơ thời kháng chiến chống Mỹ.

– miêu tả khái quát bài thơ về tiểu đội không kính: Bài thơ về tiểu đội không kính được sáng tác trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, ca ngợi tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm, chiến đấu vì miền nam ruột thịt máu của những người lính lái xe vượt núi.

b) phần thân

* tóm tắt hoàn cảnh sáng tác của bài thơ:

  • Bài thơ được sáng tác trong thời kì cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra vô cùng cam go và ác liệt. từ mỗi lớp học đại học, hàng nghìn sinh viên đã đặt bút xuống đường đánh giặc.
  • pham tien duat ghi lại những hình ảnh tiêu biểu về nơi khói lửa trường sơn, trong đó có một số đoàn xe ô tô vượt qua mưa bom, bão đạn của kẻ thù để ra trận.
  • Cảm hứng về những chiếc xe không có cửa sổ là nền để nhà thơ người lính khắc họa thành công chân dung người lính lái xe. .

* ảnh xe ô tô không đeo kính

– hình ảnh những chiếc ô tô không có kính được tác giả miêu tả một cách trần trụi và chân thực:

không có kính không phải vì xe không có kính, bơm giật, bơm rung kính đã hỏng.

  • đó là những chiếc xe tải vận chuyển hàng hóa và đạn dược ra mặt trận, bị máy bay Mỹ ném bom, kính vỡ.
  • động từ “rung chuyển”, “rung chuyển”. ”Cùng với từ“ bom ”được nhấn mạnh hai lần, làm tăng tính nghiêm trọng của cuộc chiến

= & gt; hai câu thơ giải thích lý do tại sao những chiếc xe không có cửa sổ, do đó phản ánh mức độ nghiêm trọng của chiến tranh.

* hình ảnh người lính lái xe ô tô

– lập trường kiêu hãnh và tự hào hiếm có:

ở trong buồng lái, nhìn xuống đất, nhìn lên trời, nhìn về phía trước.

    / li>

– thái độ, tinh thần lạc quan, những câu chuyện cười khó đỡ:

+ phấn xịt lên tóc, lên mặt là bông đùa, quần áo ướt cứ đi vì gió làm khô nhanh, xe không đeo kính còn có cái hay là tầm nhìn rộng hơn, nhìn thấy đường “đi thẳng vào lòng. “, khi nhìn thấy các vì sao gần hơn” vội vã bước vào cabin “.

– & gt; khó khăn gian khổ như nhân lên gấp bội vì xe không có cửa sổ nhưng không làm vơi đi ý chí, quyết tâm của những người lính sau tay lái.

+ chữ “vâng”: như cái tặc lưỡi, nhất trí với nhau, coi mọi khó khăn là chuyện nhỏ.

= & gt; thái độ lạc quan, yêu đời, tự tin pha chút bướng bỉnh, bướng bỉnh; hình ảnh chú bộ đội lái xe trông thật đẹp đẽ và đáng trân trọng.

– Tình cảm thân thiết và thiêng liêng là sợi dây vô hình kết nối những con người đang lâm vào cảnh hiểm nghèo, cận kề cái chết:

    . trời, cùng ăn, cùng hát, cùng ngủ trên võng trong rừng.

= & gt; Vượt qua khó khăn, những người lính trên khắp thế giới trở thành “gia đình” của nhau.

– niềm tin vào chiến thắng:

  • thông điệp “lại đi”, lý do “vì nam tiến”: không gì có thể ngăn cản các bạn đến chi viện cho chiến trường miền nam.
  • hình ảnh ẩn dụ. “Bầu trời xanh hơn” và từ hoán dụ “có một trái tim trong xe”: tình yêu đối với miền Nam, đối với đất nước, đó là niềm tin và chiến thắng, vào tự do.

– & gt; hình ảnh “tấm lòng” là một phép ẩn dụ nghệ thuật đẹp đẽ, sáng tạo, khẳng định phẩm chất cao quý của những người chiến sĩ ra tiền tuyến lớn.

= & gt; họ đều có chung lý tưởng chiến đấu giải phóng miền nam, thống nhất đất nước và tin tưởng vào một tương lai tươi sáng đang đến rất sớm.

* đánh giá tính năng nghệ thuật:

  • kết hợp các thể thơ bảy và tám chữ
  • sử dụng các biện pháp tu từ như điệp ngữ, hoán dụ …
  • tạo ra những hình ảnh độc đáo bằng chất liệu sống động và chân thực
  • ngôn ngữ và giọng điệu phong phú, tự nhiên, lành mạnh.

c) kết luận

  • khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ.
  • liên quan đến việc giáo dục, cổ vũ tinh thần chiến đấu cho thế hệ trẻ ngày nay.

phân tích ngắn gọn bài thơ về tiểu đội không kính

Chúng tôi không sinh ra trong chiến tranh, nhưng thế hệ trẻ của chúng tôi rất may mắn được tiếp cận với những bài thơ hay về chiến tranh. nhờ đó chúng tôi hiểu hơn, yêu những người lính hơn, những năm tháng gian khó. bài thơ về tiểu đội xe không kính cũng là một trong những sáng tác hay viết về người lính nhưng ở một khía cạnh khá mới mẻ. bài thơ được nhà thơ Phạm Tiến Duật viết vào năm 1969, lúc đó cuộc kháng chiến chống Mỹ của đất nước đang bước vào giai đoạn vô cùng ác liệt.

Qua nhiều năm vật lộn, con đường dài đã trở nên quen thuộc với nhiều người. hình ảnh con đường sơn lâm cũng được lấy làm đề tài cho nhiều bài thơ, nhạc họa. như khúc truong son dong, truong son tay, sợi thua ngọn giáo của sợi. Phạm Tiến Du cũng viết về con đường dài qua lăng kính của người lính lái xe. Hàng ngày dọc đường có rất nhiều xe qua lại, không phải xe nào cũng lành, nhưng có xe bị mất kính chắn gió trước, thật đặc biệt:

không có kính không phải vì xe không có kính. máy bơm, máy bơm rung bị hỏng

hai câu đầu giải thích tại sao xe không có cửa sổ, lời giải thích rất rõ ràng. bài thơ cũng tóm gọn hình ảnh chiến trường khốc liệt bom đạn. nhưng giữa trận bom đạn ác liệt ấy, người đọc không sợ lính mà chỉ thấy hồn thơ, tự do:

cẩn thận trong cabin, chúng tôi ngồi nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng

hai từ ung dung thể hiện sự tự do, tự tại của người lính. bom vỡ kính chỉ là chuyện nhỏ, bom đạn cũng có thể cướp đi sinh mạng của con người. tuy nhiên, tài xế vẫn “bình thản” “nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”. những câu thơ sau như một cuốn phim ghi lại những gì người lính đã nhìn thấy trên đoạn đường mà chiếc xe đi qua. giọng điệu thơ đầy đĩnh đạc và mạnh mẽ:

Tôi thấy gió lùa vào tôi dụi đôi mắt cay cay, tôi thấy con đường đi thẳng vào lòng mình, tôi thấy những vì sao trên trời bỗng chốc những cánh chim như rơi xuống, như lao về phía căn nhà gỗ.

>

ở đây, gió đã được nhân hóa để thực hiện hành động “cọ xát”. một bài thơ đọc lên để lại ấn tượng mạnh cho người đọc. Người lính lái xe thấy gió, thấy đường, thấy sao, cánh chim bay. nhìn thấy gió là do xe không có kính, mỗi lần quay bánh xe, mắt đều chạm vào gió, khiến tác giả có cảm giác mình có thể nhìn thấy gió. và ở giữa bầu trời đêm, người lái xe cũng có thể nhìn rõ các vì sao. các từ “tiễn”, “sa”, “vội” khiến ta thấy nhịp thơ trở nên gấp gáp như một chiếc xe lao nhanh trên đường. ô tô đi nhanh để tránh bom đạn của kẻ thù.

Trong những câu thơ sau, tác giả đề cập đến một trở ngại khác mà người lính lái xe gặp phải trên đường công vụ với chiếc xe không có cửa sổ: bụi:

không có kính, có, có bột và keo xịt tóc trắng như những ông già không cần gội đầu, hút một điếu thuốc và nhìn nhau cười trên môi!

những câu thơ giàu hình ảnh khiến người đọc có cảm giác như đang chứng kiến ​​một người lính lái chiếc xe bụi bặm. những người lính tóc xanh, nhưng vì bụi nên tóc đã bạc trắng như tóc ông già. tuy nhiên, họ không quan tâm. những nụ cười hồn nhiên và sảng khoái tiếp tục nở khi nhìn nhau.

Gió bụi qua đi, rồi mưa trở lại. không cần kính, người lính có thể tận hưởng mọi dư vị của thiên nhiên:

không kính thì phải, áo ướt, mưa xối xả, mưa xối xả như ngoài kia, không cần đổi tài xế đi trăm km nữa, mưa tạnh, gió lùa mau khô

Nếu không có kính chắn gió, nếu bạn lái xe dưới trời mưa, bạn sẽ chỉ bị ướt. nhưng với tinh thần cách mạng của nó, việc bị ướt là chuyện nhỏ, dừng xe mới là chuyện lớn. nên tài xế tiếp tục di chuyển “lái thêm trăm km nữa”. Những gian khổ của những người lính không đo bằng gió, bụi, mưa mà bằng quãng đường họ đã chạy. bài thơ miêu tả nghị lực phi thường của những người lính, họ đã bất chấp nghịch cảnh và nguy hiểm để hoàn thành nghĩa vụ của mình.

Niềm vui của những người lính là khi gặp lại đồng đội giữa rừng:

ô tô rơi do bom. Tôi đến đây để gặp gỡ những người bạn trên đường đi để bắt tay nhau qua cửa sổ vỡ

câu thơ có một ví dụ ấn tượng khi xe cũng có cảm xúc. Họ gặp nhau và tạo thành một đội. Cũng giống như những người lính, mỗi khi một người lái xe gặp một chiếc xe khác, họ đưa tay ra và nắm tay nhau qua tấm kính vỡ như thể tiếp thêm sức mạnh cho nhau để tiếp tục đi. một cuộc gặp gỡ vội vã nhưng đầy cảm xúc.

<3

Tác giả pham tien duat có đề cập đến bếp hoang dã, một loại bếp không khói rất phổ biến trong chiến tranh. những vần thơ mang đến cho người đọc cảm giác gần gũi. những người lính tuy xa lạ nhưng gặp nhau giữa rừng thì “bát đũa chung tình”. Trên đường đi, tài xế còn gặp phải một đoạn võng mắc kẹt. con đường dù gian khổ nhưng xe vẫn đi.

xe không kính, rồi xe không đèn, không mui, xước cốp, xe vẫn chạy vì mặt tiền hướng nam chỉ cần có lòng trong xe

Những câu thơ cuối miêu tả sự thiếu thốn của người lính lái xe. xe không cửa sổ, xe không đèn, xe không mui. nhưng lỗi là gì? phía nam thân yêu đang vẫy gọi, “miễn là có trái tim trong xe”, xe sẽ tiếp tục hoạt động. hình ảnh thơ thật đẹp, chứa đựng lí tưởng sống của người chiến sĩ cách mạng luôn nghĩ đến người khác.

con đường dài, một con đường huyền thoại. cám ơn nhà thơ mỹ thuật đã cho chúng tôi một cái nhìn mới mẻ, lạc quan và yêu đời. qua bài thơ về tiểu đội xe không kính, ta càng thấy thêm niềm tự hào về các chú bộ đội.

phân tích tiểu đội xe không kính tốt nhất

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta không chỉ là bản anh hùng ca bất hủ mà còn thổi một hơi thở mới vào văn học, góp phần làm phong phú thêm thế giới thư cách mạng. . Với tinh thần “xẻ núi non sông cứu nước / với lòng thắp lửa tương lai”, đồng bào miền Bắc đã đồng lòng ủng hộ miền Nam về vật chất và tinh thần. Đôi mươi chàng trai cô gái trùng điệp ngày đêm xông pha tội ác cũng có mặt trong các đường dây. hiện thực chiến tranh đã trui rèn trong anh một tinh thần lạc quan, yêu đời. và “Bài thơ về tiểu đội xe không cửa sổ” là một trong những tác phẩm của anh thể hiện rõ nhất tinh thần đó.

Phạm Tiến Duật được biết đến là nhà thơ của Trường Sơn, nhà thơ huyền thoại của Đường mòn Hồ Chí Minh trong những năm chống Mỹ cứu nước. uu. để cứu nước. Cuộc đời gắn với Trường Sơn huyền thoại là cuộc đời đẹp nhất trong thơ Phạm Tiến Duật. có lần anh ấy tâm sự với tôi rằng đó là một cuộc phiêu lưu tuyệt vời của định mệnh. khói lửa trượng nghĩa đã thấm đẫm trong thơ ông qua hình ảnh những người lính mở đường, những người lái xe ô tô. Thơ Phạm Tiến Duật không đi vào lòng người đọc bằng những hình ảnh lãng mạn, du dương hay với ngôn ngữ trau chuốt, cầu kỳ, âm điệu du dương, mềm mại, mượt mà. Thơ Phạm Tiến Duật làm say đắm lòng người bằng sự sinh động, tự nhiên, mạnh mẽ, táo bạo và độc đáo. “thơ ông mang hơi thở của cả một thời đại, nhưng với khí phách hiên ngang, bụi bặm, ngạo nghễ của người chiến sĩ thời chống Mỹ” (Nguyễn Văn Thọ). và “Bài thơ về chiếc xe tuần tra không có cửa sổ” là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của ông, thể hiện tính khí tàn nhẫn và ngây thơ của người lính lái xe, thể hiện trong tập “luna de fuego” (1970).

“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” do Phạm Ngữ sáng tác vào năm 1969, khi cuộc chiến tranh chống Mỹ đang phát triển vô cùng ác liệt. Máy bay giặc Mỹ đã thả hàng nghìn, hàng vạn tấn bom đạn và chất độc hóa học xuống tuyến đường chiến lược mang tên Đường Hồ Chí Minh. trên trục đường chính của khu rừng sơn cước và được mệnh danh là “đường Hồ Chí Minh”, những chiếc xe tải của đơn vị vận tải vẫn lao vào trận địa chi viện cho miền nam. Những chiếc xe và những người lính lái đã trở nên thân thuộc, quyến rũ và trở thành nguồn cảm hứng để tác giả viết, làm thơ về hình ảnh vô giá này.

Lấy cảm hứng từ hình ảnh những chiếc ô tô độc đáo “không kính” và bằng tài năng của mình, Phạm Tiến Duật đã khắc họa thành công hình ảnh độc đáo đó. bên trong cái bề ngoài tưởng như đổ nát, không có của cải vật chất, lại có khí phách hiên ngang, trái tim nhiệt huyết, lạc quan của những người lính trẻ ở đầu bài thơ, tác giả nêu lí do những chiếc xe không kính bằng một ngôn ngữ tự nhiên, giản dị nhưng xen lẫn một chút tàn bạo:

“không có kính thì không phải vì ô tô không có kính”

Câu thơ như một lời tự sự, một lời tâm sự. cấu trúc từ láy vừa nhấn mạnh âm phủ vừa thể hiện sự tài tình, hồn nhiên của những người lính dẫn núi. và vô hình trung, những chiếc xe không kính ấy đã trở thành biểu tượng của vùng đất son. lời giải thích về những chiếc xe độc ​​nhất vô nhị không có kính đó đúng như mô tả hình ảnh bằng lời:

“quả bom đập vào kính và làm vỡ nó”

từ “bom” kết hợp với các động từ mạnh như “nhảy”, “rung” đã tái hiện không khí, tính chất khốc liệt, khắc nghiệt của chiến tranh, bộc lộ bản chất hung bạo, ngông cuồng của bọn đế quốc, dù theo đuổi những mục tiêu phi nghĩa. Những cái giá phải trả cho bao nhiêu tấn bom, đạn ném xuống đất trũng để tàn phá con người và thiên nhiên, làm lung lay ý chí kiên cường và tinh thần chiến đấu của tuổi trẻ. bom thổi ngược, bom rung phá kính. lời bài hát dường như toát lên sự thanh thoát từ người chỉ huy:

cẩn thận trong cabin, chúng tôi ngồi nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng

Từ “hiệp sĩ” được đảo ngữ để nói lên phong thái tự tin, bình tĩnh, kiên cường, dũng cảm của người chiến sĩ. hai chữ “tôi cảm” với sự ám chỉ nhìn ba lần thể hiện một phong thái đĩnh đạc, mạnh mẽ. bất kể thiếu thốn vật chất, hiểm nguy nơi chiến trường ác liệt, những chàng trai trong bộ quân phục vẫn lên đường hoàn thành nhiệm vụ. sự đối lập giữa hoàn cảnh khốc liệt của chiến tranh và tâm lý của những người chỉ huy càng làm rõ thêm phẩm chất của người lính: dũng cảm, khí phách.

Khổ thơ chắt lọc nhịp điệu và sự cân bằng của đoàn xe gập ghềnh trên đường dài và thái độ ngoan cường của những người lính trẻ. đã khắc sâu trong tâm trí người chiến sĩ hình ảnh người chiến sĩ “vượt núi cứu nước”: một vẻ đẹp rực rỡ toát ra từ tâm hồn. cái nhìn ấy thể hiện tình yêu thiên nhiên và cuộc sống, sự kiên định trong nhiệm vụ của anh. Chính vì vậy, bất chấp tiếng gào thét của bom đạn, anh em vẫn không ngừng tiến lên, hướng tới ánh sáng của độc lập, tự do.

Trong tất cả các loại ô tô, kính là bộ phận bảo vệ ngăn cách bên trong cabin với thế giới bên ngoài. nhưng giờ đây, bạn như được hòa mình vào thiên nhiên, với không khí chiến tranh bên ngoài:

Tôi thấy gió thổi vào và tôi dụi đôi mắt cay xè của mình. Tôi đã nhìn thấy con đường dẫn thẳng đến trái tim mình. Tôi nhìn thấy những vì sao trên bầu trời và đột nhiên những cánh chim như rơi xuống, như lao vào trong cabin

>

cảm giác của người lính đi trước gió là cảm giác trực tiếp. anh ta không chỉ cảm thấy mà còn nhìn thấy những cơn gió vô hình. để xoa dịu đi vị cay đắng khó chịu trong mắt anh từ những ngày đêm nằm thao thức lái xe không ngừng nghỉ, cô đã cho anh gió để dụi đôi mắt cay đắng, xoa xoa để anh có thể tiếp tục bước vào ngày mai, bước tiếp vào tương lai. . sự liên tưởng đó thật đẹp và độc đáo khi chiếc xe lao về phía trước, con đường lúc đó như chạy ngược lại. lòng tin nhất quán với lòng người lái xe, là tấm lòng hy vọng và tâm huyết với nhiệm vụ. trái tim người lính luôn chan chứa tình yêu quê hương đất nước mà trên hết là con đường thân quen, gần gũi, con đường hứng chịu nhiều bom đạn. xe cứ phóng nhanh, đi xa, tiến về hướng nam.

Tôi nhìn thấy những ngôi sao trên bầu trời và đột nhiên những con chim dường như lao vào cabin

Dù sống với cuộc kháng chiến đầy bom đạn, nhưng không vì thế mà những người lính trẻ sống trong lo âu, sợ hãi mà tâm hồn họ vẫn đầy lãng mạn, bất chợt bay bổng khi anh mở to mắt nhìn. từ bên trong qua lớp kính vỡ của cửa sổ để nhìn những vì sao trên trời, để nhìn những cánh chim. có lẽ tâm hồn bạn phải vui tươi, được tiếp xúc với cuộc sống thì bạn mới cảm nhận được những cánh chim bay, làm sao để lao vào cabin trò chuyện cùng chúng. nếu từ “thấy” thể hiện thái độ chủ động của người lính trước cảnh vật thiên nhiên bên ngoài thì từ “thấy” lại nhấn mạnh sự xuất hiện đột ngột, nhanh chóng, “đột ngột” của cánh chim. một ngôi sao trên bầu trời, một con chim lạc cũng thu hút sự chú ý của anh ta và bay lượn xung quanh. nhịp thơ trở nên nhanh, sôi động thể hiện tình yêu cuộc sống, thiên nhiên, tinh thần lạc quan của một chiến sĩ giải phóng quân thời chống Mỹ. đối với người lính lái xe, chiếc xe “không cửa sổ” tạo cho anh ta cảm giác chạy trốn. nhưng đó cũng là nguyên nhân dẫn đến hậu quả:

<3

Mất tấm chắn, người lái và chiếc xe như hòa vào nhau để cảm nhận rõ ràng không khí của trận chiến. nhà thơ sử dụng động từ mạnh “rắc” kết hợp với ám chỉ “bụi” để miêu tả, nhấn mạnh mức độ kinh hoàng của chiến trường. mọi thứ mờ mịt trong khói, bụi mù mịt che khuất tầm nhìn, che khuất cả trời đất mỗi khi xe lưu thông trên tuyến đường trường sơn. Đối mặt với sự thiếu thốn về vật chất này, những người lính không hề kêu ca, than phiền mà chỉ “hên”. pham tien duat đã thể hiện tài năng dùng từ của mình khi chỉ với hai từ thôi đã thể hiện được khí phách hiên ngang, bất khuất, không màng đến khó khăn, hiểm nguy của chiến tranh để tiến tới tương lai. khó khăn và các hình phạt dành cho những người trẻ tuổi là rất nhẹ. trong hoàn cảnh đó, họ sẵn sàng đồng ý và được động viên bằng những nụ cười “ha hả” rất sảng khoái, làm phong phú thêm tâm hồn người lính già. gian khổ, bom đạn không thể quật ngã họ mà ngược lại càng hun đúc cho họ ý chí kiên cường và sưởi ấm tình yêu quê hương đất nước.

Họ phải di chuyển trên ô tô không có cửa sổ, nếu những ngày nắng thì bụi “tóc trắng tung bay như những ông già” và những ngày mưa gió, hạt mưa tạt vào mặt người lính, cản tầm nhìn. vấn đề của bạn bây giờ đầy khó khăn. Những người lính đã trải qua mọi khó khăn, dù nắng hay mưa, nhưng họ không bỏ cuộc, không mất lòng người mà vẫn luôn cởi mở, lạc quan:

bạn chưa cần thay đồ, lái xe một trăm km nữa, mưa tạnh, gió lùa nhanh khô

cụm từ “mưa” kết hợp với những từ gợi tả đẹp “rắc, đổ” gợi lên cơn mưa nặng hạt, khiến người lính lái xe “ướt sũng”. cái thái độ của người lính được thể hiện rõ ràng “không cần phải thay đổi”. họ bỏ qua cái ẩm và cái lạnh để tiếp tục nhiệm vụ “lái xe trăm cây số nữa”. họ thể hiện quyết tâm cao cả của những người lính: xe phải đến đích giải phóng, tự do, có tinh thần trách nhiệm, họ cống hiến cho cuộc chiến, họ lái xe cho đến khi trời “tạnh mưa” và trong suy nghĩ của họ cũng thật, giản dị:

mưa tạnh, gió thổi khô khốc

Sau bao ngày gió bụi đánh nắng, đánh mưa vượt hàng trăm cây số sau những tháng ngày gian khổ, những người lính trẻ đã có một cuộc hội ngộ oanh liệt giữa núi rừng sơn cước. những cuộc gặp gỡ và bắt tay độc đáo:

những chiếc ô tô bị bom thả đến đây để thành lập đội.

giờ đây hiểm họa chiến tranh đã lùi vào ký ức, nhường chỗ cho cuộc gặp gỡ, cuộc gặp gỡ của những chiếc xe không kính và những con người tháo vát, trẻ trung nhưng giàu nghị lực. Họ yêu nhau hơn cả máu mủ, họ sống chết có nhau, họ chia sẻ những gian khổ của chiến tranh và họ chia sẻ niềm vui về tin chiến thắng trong chiến tranh. Có lẽ những khoảnh khắc đó là vô giá. và lạ thay, bất chợt trong buổi gặp gỡ, tác giả thấy thú vị những chiếc xe không kính tưởng chừng bất tiện nay đã trở thành tiện lợi cho những cái bắt tay thoáng qua trên con đường dài. .

đoạn thơ diễn tả cuộc gặp gỡ vui vẻ trong không khí đoàn kết, gắn bó và sẻ chia sau những trận chiến khốc liệt, căng thẳng:

gặp gỡ bạn bè để bắt tay nhau qua mảnh kính vỡ

một lúc nào đó chiếc ô tô không có cửa sổ đó phải ngừng hoạt động. đó là khi họ hoàn thành nhiệm vụ. chúng ta thấy một vẻ đẹp khác ở họ. đó là tình đồng chí, tình đồng đội của những người lính đi đầu. khác hẳn với hình ảnh người vệ quốc với nụ cười “băng giá” không biết đến bao giờ mới được trở về quê hương. và giải thoát quân giữa trận chiến ác liệt, họ cũng không ngán, vì họ biết rằng người bạn đồng hành thân thiết và yêu thương của mình. trên con đường gian nan đó, họ “tìm thấy những người bạn cùng đường”, mang lại cho họ niềm vui và sự thân thiết. từ “gặp mặt, gặp gỡ” gợi tả sự quây quần của những người lính trẻ cùng chí hướng, hình ảnh “bắt tay” thật đẹp, thể hiện sự đồng cảm, quý mến, yêu thương của những người lính. .

tình đồng đội, tình bạn thân thiết của người lính lái xe tuyến trường sơn càng thêm thân thiết và cảm động khi họ cùng dùng bữa trong chiến tranh:

<3

Họ nói chuyện, cười đùa với nhau một cách thoải mái và thân mật. họ dựng lên một gian bếp vương giả giữa trời “võng mắc bẫy chông” sau những giây phút căng mình giữa chiến trường. hai hình ảnh “bếp núc” và “võng chiếu bấp bênh” là hai nét vẽ hiện thực sống lại hiện thực nơi chiến trường. hai anh em vừa nấu cơm vừa tranh thủ ngủ trưa trên chiếc “võng treo”. bữa cơm bình dị nơi chiến trường nhưng vẫn chan chứa niềm vui của tình bạn thân thiết:

“Thương nhau củ sắn chia nhau, bát cơm chia đôi, chăn đắp”

(có thể)

Kể từ đây, định nghĩa về gia đình lính vui là gì!

“Dùng chung đĩa và đũa là gia đình”

một gia đình vui vẻ và trẻ trung của những người lính trẻ được hình thành bằng cách “chia sẻ đĩa và đũa”. nhưng chỉ một lúc rồi người lính tiếp tục cuộc hành quân:

“đi một lần nữa, đi đến bầu trời xanh một lần nữa.”

Cụm từ “lại đi” diễn tả một công việc quen thuộc của những người lính, nhưng đồng thời cũng thể hiện sự hăng hái, tinh thần sôi nổi, khẩn trương của họ. trước mắt họ là “bầu trời xanh hơn” như báo hiệu một ngày làm việc và chiến đấu nhưng phù hợp với tâm hồn tươi trẻ, lòng yêu đời của những người lính, cũng như sự lạc quan, tin tưởng vào tương lai. , trong tương lai. cuộc sống.

vẫn là giọng thơ mộc mạc, gần gũi đời thường như văn xuôi, nhưng âm nhạc và hình ảnh của khổ thơ cuối rất đẹp, rất thơ, góp phần hoàn thiện bức chân dung tuyệt vời của người lính lái xe quân sự trong quan họ. là lộ trình trong những năm ở Mỹ.

bài thơ kết thúc bằng hình ảnh thơ mộng, hiện thực phũ phàng xen lẫn lãng mạn bay bổng:

không kính nên xe không có đèn, không có mui, thùng xe có vết xước. xe vẫn chạy vì mặt tiền hướng nam chỉ cần một trái tim trên xe.

Khổ thơ cuối là ngôn ngữ thuần túy, giản dị. cụm từ “không” như một sự nhấn mạnh, làm nổi bật những khó khăn, trở ngại liên tiếp. khi bom làm hư hại các bộ phận cần thiết của xe. cái gì là “không” là kính, đèn, mui xe, “thân xe trầy xước”. tuy nhiên, người lính vẫn tiếp tục điều khiển phương tiện. “xe cứ chạy” nhưng không chịu dừng lại và ngồi yên. Động lực nào giúp người lính tận tụy, quên mình, không quản ngại gian khổ, khó khăn? tất cả vì một mục đích, một lý tưởng cao cả “vì miền nam phía trước.” lòng yêu nước nồng nàn, lòng căm thù giặc cao độ khiến người lính sẵn sàng hy sinh quên mình vì nhiệm vụ. khát vọng cao cả nhất là khát vọng giành độc lập, tự do cho “Tổ quốc”, đem lại hòa bình, độc lập cho quê hương. cội nguồn sức mạnh của người lính lái xe, lòng dũng cảm của người lính được miêu tả một cách bất ngờ và sâu sắc:

miễn là có một trái tim trong xe

Chính “trái tim” cháy bỏng tình yêu quê hương, đồng bào miền Nam đã động viên, khích lệ người lính vượt qua muôn vàn khó khăn, luôn bình tĩnh, tự tin để vững tay lái đi đến đích. hình ảnh bất ngờ ở cuối giải thích tất cả. lời thơ giản dị như lời ăn tiếng nói hàng ngày nhưng chứa đựng ý tưởng sâu sắc về một chân lý của thời đại. sức mạnh để chiến thắng không phải là vũ khí tối tân, phương tiện hiện đại, đầy đủ trang bị mà là những con người có tấm lòng yêu nước thương dân, sôi sục lòng căm thù giặc.

“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất, thể hiện phong cách thơ lục bát. không phải ngẫu nhiên mà người ta đặt tên bài thơ là “bài thơ về tiểu đội xe không cửa kính”. Tiểu đoàn là đơn vị cơ sở nhỏ nhất trong biên chế Quân đội ta. cái tên gợi cho người đọc liên tưởng đến sự khốc liệt của chiến tranh. một cái tên trần trụi, không có gì đẹp đẽ và ngắn gọn như bao nhiêu nhan đề thơ văn khác, đối lập với quan niệm về cái đẹp thuần túy văn chương. vẻ đẹp với mỹ nhân kế đến từ những biến cố sôi động của cuộc sống ùa vào thơ ca.

tác giả thêm vào bài thơ hai chữ để thể hiện quan niệm thơ nói, kể mà vẫn rất thơ. chất thơ nảy sinh từ hiện thực, từ tâm hồn hào sảng, lãng mạn, lạc quan của người lính, của tuổi trẻ Việt Nam giữa khói lửa bom đạn đầy kiêu hãnh, quyết chiến, quyết thắng.

Ra đời cách đây gần ba mươi năm, bài thơ vẫn còn ảnh hưởng mạnh mẽ đến chúng ta ngày nay. nhà thơ đã giúp ta cảm nhận sâu sắc hình ảnh người lính lái xe trong giờ phút gian khổ nhưng anh dũng, hy sinh vì quê hương, đất nước. chúng ta là thế hệ mai sau sẽ tiếp nối truyền thống hào hùng của tổ tiên và làm tròn sứ mệnh của ngày hôm nay. chúng tôi tự hào về họ, những người lính lâu năm:

“ôi mảnh đất anh hùng dễ chìm trong khói lửa vẫn xanh tươi, mưa bom, bão đạn, thanh bình, tiếp tục nở nụ cười cơm lam”

(có thể)

phân tích bài thơ về tiểu đội không kính – bài mẫu 1

trong những năm tháng gian khổ ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. uu. và cứu nước, từ khi con đường trường sơn đầy bom đạn, nhà thơ lục bát cũng là người làm thơ ca ngợi những người lính trên chiến trường với một lối thơ riêng biệt, độc đáo. tác phẩm “bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một trong những bài thơ để lại dấu ấn đậm nét trong lòng người đọc.

Được sáng tác trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, những chiếc xe trên tuyến đường trường được đảm nhận vai trò quan trọng trong việc chi viện cho tiền tuyến miền Nam, nhưng điểm đặc biệt của những chiếc xe thời kỳ này là rất hình thức đặc biệt: xe không kính.

hình ảnh thơ mộng thường được kết hợp với vẻ đẹp, sự trau chuốt và hùng vĩ. bình thường xe không có kính thì không thể gọi là đẹp. tuy nhiên, tác giả đã lấy hình ảnh đó làm cảm hứng chủ đạo xuyên suốt bài thơ. Hình ảnh độc đáo nhưng hợp lí này đã tạo được ấn tượng mạnh, là tiền đề tô đậm bản lĩnh, ý chí kiên cường, tinh thần lạc quan, ý chí quyết thắng. hình ảnh đó gợi lên sự nguy hiểm tưởng chừng như cận kề cái chết, sự hy sinh ở đâu đó rất gần gũi với người lính, nhưng phạn ngữ đã diễn tả nó bằng một vần thơ rất giản dị:

“Không có kính không phải vì xe không có bơm giật, bơm rung làm vỡ kính…”

Cấu trúc phủ định của sự phủ nhận như khẳng định thực tế khắc nghiệt của chiến tranh và sự thiếu thốn của tất cả các loại binh lính. “bơm giật, bơm rung” khiến kính bị “vỡ”. lời thơ đầy tiếc nuối, cách điệp ngữ im lặng ở cuối câu dường như kéo dài sự tiếc nuối đó lên nhiều lần.

Thể hiện hình ảnh những chiếc xe không kính là gián tiếp đại diện cho hình ảnh những người lính lái xe trên con đường gian khổ, dũng cảm, bất chấp mọi khó khăn với niềm vui sôi nổi của tuổi trẻ và ý chí quyết chiến vì miền nam ruột thịt. trong ác liệt của chiến tranh, những người lính vẫn giữ vững tư thế hiên ngang ra mặt trận, thực hiện lời kêu gọi “tất cả cho tiền tuyến, tất cả vì miền Nam xương máu”. câu thơ có nhịp điệu thanh thản và tự tin:

“trong buồng lái, chúng ta ngồi và nhìn đất, chúng ta nhìn lên trời, chúng ta nhìn thẳng về phía trước”

các từ được lựa chọn “hiệp sĩ”, “nhìn xuống đất”, “nhìn trời”, “nhìn về phía trước” thể hiện tư thế và phong cách lái xe của người lính trên đường ra trận. hiên ngang tự hào, sự tự tin ấy còn thể hiện ở chỗ dù có “bom giật, bom rung” của kẻ thù, người ta vẫn cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước, những vẻ đẹp lãng mạn dù cái chết vẫn rình rập, rình rập đâu đó quanh mình. thật là một hình ảnh đẹp nên thơ:

“Tôi nhìn thấy những vì sao trên bầu trời và đột nhiên đôi cánh của những con chim như buông xuống, lao về phía cabin”

những khó khăn và gian khổ về vật chất không ngăn cản anh ấy đi theo con đường của mình:

“không đeo kính, có bụi” “không đeo kính, có quần áo ướt”

cấu trúc “không kính thì thôi…” là thái độ chấp nhận hay nói chính xác hơn là thái độ ngạo mạn không quan tâm, không quan tâm đến những việc như vậy. một câu thơ giản dị như một câu nói dí dỏm và tinh nghịch hàng ngày đã giúp chúng tôi hiểu và cảm nhận được những khó khăn mà các chiến sĩ giải phóng phải dừng lại và chấp nhận.

Cách bạn giải quyết vấn đề cũng rất ngạc nhiên và thú vị:

“không cần tắm rửa, châm một điếu thuốc, nhìn nhau cười tươi, ha ha” “không cần thay đồ, lái xe trăm km nữa, mưa sẽ tạnh, suối mau cạn” .

ngôn ngữ giản dị, giọng điệu tươi vui thể hiện tinh thần lạc quan, yêu đời của tuổi trẻ sống có lí tưởng, hoài bão và ước mơ. tư thế kiêu hãnh và lòng dũng cảm đã làm nên sức mạnh của người lính. sức mạnh đó còn được nhân lên vì bên cạnh anh là một nhóm anh hùng. Từ trong bom đạn hiểm nguy, “Biệt đội xe không kính” đã được thành lập, gồm những con người từ khắp nơi trên thế giới, cùng chung lý tưởng và xích lại gần nhau để trở thành bạn bè:

“Gặp gỡ bạn bè để bắt tay nhau từ những mảnh kính vỡ”

Hóa ra kính vỡ cũng có cái lợi của nó, không mất thời gian kéo kính, chỉ cần vẫy tay qua cửa là bạn có thể “bắt tay” bạn cùng phòng. không chỉ vậy, bạn còn chia sẻ sự phấn khích của tuổi trẻ, tình đồng đội và tình đồng chí:

“Bát đũa giống nhau nghĩa là gia đình tắc đường”

pham tien duat đã tạo ra một định nghĩa mới về gia đình, đơn giản nhưng ấm áp và bên nhau: “những tấm lòng chung”. đọc những câu thơ này khiến ta liên tưởng đến giai điệu rộn ràng, tươi vui của bài hát “năm anh em một chiếc xe tăng” với những ca từ chân thành, thiết tha: “năm anh em một nơi, lên xe đò muôn phương…”. họ vẫn cùng nhau cười đùa, họ tranh thủ đánh võng tranh thủ chợp mắt nhanh chóng, dẫu biết rằng ngày mai giữa đường như thế này sẽ rất khó tìm lại chính mình. Những khó khăn đó tiếp tục được tác giả khắc họa với những khó khăn càng gian khổ thì chiến tranh càng ác liệt:

“Không có kính thì xe không có đèn, không có mui, thùng xe có vết xước”

nhưng, dù thực tế khắc nghiệt đến đâu, chiến tranh càn quét ác liệt của kẻ thù đến đâu, ý chí chiến đấu quên mình vì tiền tuyến của những người lính vẫn không hề dao động: “Xe cứ chạy về phương Nam cho trước”. hình ảnh ẩn dụ mang tính biểu tượng “anh chỉ cần một trái tim lên xe” đã thay cho tiếng lòng của tác giả, thể hiện lòng yêu nước và ý chí quyết thắng. trái tim ấy là tình yêu, là sức trẻ, là lý tưởng và là nhiệt huyết của người lính lái xe, đi suốt chặng đường dài nối liền hai miền đất nước.

với những hình ảnh tượng hình, thường sử dụng cấu trúc bổ âm với giọng điệu trẻ trung, tươi vui, chất thơ như giọng nói đời thường, bút pháp đã khắc họa được hình ảnh những người lính lái xe trên con đường chông gai, thử thách. Là lực lượng tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam trong thời kỳ ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Hình ảnh những chiếc xe không kính và hình ảnh người chiến sĩ lái xe trong bài “Tiểu đội xe không kính” cũng thơ mộng như chính tiêu đề nhưng không giấu được những khó khăn, nguy hiểm đi kèm. những người lính phải chống lại. Đó là hình ảnh tiêu biểu của thế hệ trẻ Việt Nam trong những ngày hoa lửa trên tuyến đường Trường Sơn gian khổ và anh dũng.

phân tích bài thơ về tiểu đội không kính – bài mẫu 2

Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ thật khắc nghiệt, ác liệt. tuy nhiên, pham tien duat là một nhà thơ trẻ tài năng, trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. thơ ông có giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, tinh nghịch và sâu sắc. bài thơ về tiểu đội xe không kính in trong tập Trăng và vầng hào quang năm 1969 là một bài thơ hay và độc đáo về hình ảnh người chiến sĩ lái xe tải với tinh thần lạc quan về một ngày mai tươi sáng.

Mỗi chủ đề có một tính năng hoặc đặc điểm riêng. Người viết bất kỳ đề tài nào cũng phải đặt tình yêu và sự hiểu biết của mình vào nó thì mới có thể thành công. Phạm Tiến, một nhà thơ trẻ tài năng đã chọn đề tài người lính trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Có thể nói đó là một đề tài hấp dẫn và sâu sắc. bài thơ về tiểu đội xe không kính là bài thơ có lối viết mới lạ, độc đáo, hấp dẫn người đọc, người nghe. đó là hình ảnh những người lính lái xe trên con đường trường sơn với mục đích tiến về phương nam, bà con thân mến.

Giống như tiêu đề của bài thơ, một phần vi phạm giúp chúng ta hiểu rõ nội dung là mô tả hình ảnh những chiếc xe chiến không kính vẫn lưu thông

không có kính không phải vì xe không có kính. bom và bom rung kính vỡ

nhiều từ “không” được lặp lại ở dòng đầu tiên như một tuyên bố: chiếc xe đã từng có kính, nó vẫn là một chiếc xe đẹp. nhưng hôm nay “xe không còn kính” vì “bom đã bể kính”. cuộc chiến tranh chống Mỹ đó quá tàn khốc, ác liệt đến nỗi nhiều chiếc xe bị ngã và hư hỏng nhiều bộ phận

không kính, không đèn, không mui xe, cốp xe trầy xước

đúng vậy, chiếc xe đó không chỉ “không có kính” mà còn “không có đèn”. cụm từ “không” được lặp đi lặp lại để thấy được mức độ thiệt hại mà chiến tranh đã gây ra. Dường như tác giả Phạm Tiến Dũng cũng ngậm ngùi trước hình ảnh chiếc xe trên đường. anh ấy vẫn là một chiến mã quan trọng, một anh hùng thầm lặng đối với binh lính vì mục tiêu đi xuống phương Nam đắt giá.

nếu nhắc đến hình ảnh những chiếc xe không kính trên đường trường sơn đã gây xúc động mạnh cho người đọc thì hình ảnh những người lính lái xe sơn cước thật mạnh mẽ và đáng khâm phục

“trong buồng lái, chúng ta ngồi và nhìn đất, chúng ta nhìn lên trời, chúng ta nhìn thẳng về phía trước”

Cụm từ “quý ông” mô tả hành động và tiết lộ trạng thái rất thoải mái và dễ chịu. Những người lính trẻ dường như đang tận hưởng tiết trời mát mẻ trên đường Trường Sơn. họ luôn “nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng” với cái nhìn lạc quan, tràn đầy niềm tin và hy vọng. đắt giá nhất là cụm từ “nhìn thẳng về phía trước” được tác giả sử dụng như một lời khẳng định: dù có chuyện gì xảy ra đi chăng nữa thì những người lính ấy vẫn luôn mạnh mẽ tiến về miền nam thân yêu.

Tôi thấy gió thổi vào và tôi dụi đôi mắt cay xè của mình. Tôi đã nhìn thấy con đường dẫn thẳng đến trái tim mình. Tôi nhìn thấy những vì sao trên bầu trời và đột nhiên những cánh chim dường như lao vào cabin.

một khung cảnh trông quá hoàn hảo dưới ngòi bút viết như tranh của tác giả Phạm Tiên. cảnh ấy có gió, có cánh chim chiều và có cả ánh sao đêm… với hình ảnh nhân hóa “gió vào dụi mắt cay cay”, có ai thắc mắc tại sao tác giả lại sử dụng như vậy không? vì xe không có kính mà bộ đội chạy đêm nên mới thấy “đắng lòng” như thế! họ luôn cố gắng chạy nhanh nhất có thể về phía nam. mỗi con đường xe đi qua đều in sâu vào tim và đong đầy yêu thương. những từ “như sa, như lao” đã cho chúng ta thấy tốc độ phi thường của những chiếc xe không kính, lướt qua làn bom đạn dày đặc.

chiếc xe không kính khiến các chiến sĩ điều khiển xe không chỉ bị “gió đưa mắt cay”, mà còn bị “bụi”, “mưa”. ồ! nó khó làm sao

không có kính, có bột và keo xịt tóc trắng như người già không cần gội đầu, châm một điếu thuốc, trên mặt nhìn nhau cười ha ha

những người lính đó đã phải chịu đựng bao nhiêu gian khổ. từ “vâng” của tác giả vang lên một cách bất chấp, bất chấp khó khăn mà tôi đang chịu đựng. họ không chút nao núng “vâng” tràn đầy hy vọng về một ngày mai tươi sáng. ngày ấy dọc con đường trác sơn mưa bom, gió bụi mịt mù. “xịt tóc trắng như một ông già” với những từ ngữ gợi tả đủ để chúng ta hình dung ra cảnh tượng đó thật đáng thương như thế nào. chúng ta nên đánh giá cao và biết ơn những gì những người lính đã làm cho chúng ta ngày hôm đó.

Ngày nay, khi đi trên đường, nếu trời mưa, chúng ta vẫn cảm thấy cực kỳ độc hại mặc dù xe đã có đầy đủ phụ tùng. Nhưng trong thời chiến tranh gian khổ ấy, xe không cửa, không đèn, phải chống chọi với gió bụi, bom giật, bom rung …

nếu không có kính thì sẽ bị ướt, mưa rơi như trút nước, không cần đổi xe đi trăm km nữa, mưa sẽ tạnh và gió mau khô

Nhiệt huyết cách mạng của người lính không còn là điều gì trừu tượng mà được đo bằng “trăm km chạy xe” trên các nẻo đường. tác giả sử dụng từ chỉ con số “trăm cây số” để chỉ rằng dù có khoảng cách thì họ vẫn hiên ngang tiến về phía trước với niềm tự hào. con đường ấy trong bom đạn, mưa gió đã phải trả giá bằng mồ hôi và máu. một câu thơ bảy chữ mà có sáu biện pháp nói lên cảm giác tự do, tràn đầy nghị lực, bất chấp mọi khó khăn: “mưa tạnh, suối cạn mau!”

Con đường phía trước còn dài và khó khăn nhưng tinh thần lạc quan, vui vẻ của các bạn rất mạnh mẽ. bạn vẫn còn vui tươi, bạn vẫn còn ngây thơ

ô tô rơi từ bom

đã đến đây để thành lập một đội

gặp gỡ bạn bè trên đường đi

bắt tay qua mảnh kính vỡ

sau những ngày tháng gian khổ lái xe giữa rừng trũng hứng chịu mưa gió, bụi bặm, bom đạn … thì hôm nay họ đã được gặp lại đồng đội của mình. những cái “bắt tay” nhanh chóng nhưng ấm áp của tình đồng đội. “cái bắt tay” như tiếp thêm sức mạnh để luôn tiến về phía trước bất chấp khó khăn, thử thách.

Thời chiến luôn khó khăn, họ là những người lính lái xe xuống đường trung dũng, bất khuất. con đường mòn giữa núi rừng ấy sẽ tìm lại được bạn, hãy chuẩn bị nồi niêu nấu ăn và ăn chén cơm với tình bạn ấm áp

nấu ăn hoàng gia đưa tôi vào thiên đường

chia sẻ đĩa và đũa là gia đình

võng mắc kẹt trên đường

đến và đi, bầu trời trong xanh hơn.

“Nhà bếp hoàng gia” là nhà bếp dã chiến nằm dưới lòng đất, khi khói tản ra, kẻ thù sẽ không bị phát hiện. mọi thứ khó khăn như vậy nhưng tinh thần anh vẫn rất vui vẻ, lạc quan. họ tiếp tục “chia sẻ món ăn” và họ xem nhau như một đại gia đình, như anh em. với hình ảnh ẩn dụ “càng xanh” và nghệ thuật điệp từ “lại đi” như một lời động viên, khích lệ các em hãy luôn mạnh mẽ, kiên cường tiến về phía trước. sẽ có ngày chúng ta tìm thấy hy vọng xanh, hòa bình xanh và độc lập!

Xem thêm: Hướng Dẫn Kindred Rừng Mùa 11 Qua Cách Chơi Kindred Đi Rừng Lmht 10

hai câu thơ cuối là hai câu thơ đắt giá mà bút tích viết lên niềm hy vọng cháy bỏng cho những người lái xe trên con đường hào hùng, lạc quan là:

cỗ xe tiếp tục đi bởi vì phía trước đang ở phía nam, miễn là có một trái tim trong cỗ xe đó

rằng “trái tim” là một phép ẩn dụ đầy yêu thương. trái tim nhỏ bé của mỗi người lính tích tụ thành một tấm lòng lớn tiến về phương Nam, gia đình thân yêu. nhưng trái tim đó cũng chứa đựng bao nhiêu tức giận và uất hận? họ căm thù cuộc chiến tranh tàn khốc đã gây ra bao tang thương cho nhân dân, cho những người lính không quản ngại gian khổ. Đó là một trái tim có tình yêu và lòng căm thù sâu sắc. bằng ngòi bút tinh tế sâu sắc và cách dùng từ độc đáo, họ đã góp phần làm rõ nét hơn hình ảnh mà tác giả muốn gửi gắm trong lòng người đọc.

bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiên Duật qua ngòi bút tinh tế, hình ảnh ẩn dụ, hoán dụ, ám chỉ, v.v. nó đã góp phần làm cho hình ảnh người lính lái xe trên con đường dài sơn cước thêm phần kiêu hãnh và dũng cảm. . họ là những người kiên cường, bất khuất bất chấp khó khăn. Bài thơ đã tái hiện sinh động thời kỳ kháng chiến chống Mỹ oanh liệt trên tuyến đường lịch sử trượng phu và những con người dũng cảm, lạc quan mãi mãi đi vào sử sách thơ ca trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước!

phân tích bài thơ về tiểu đội không kính – bài mẫu 3

pham tien du là một trong những nhà thơ trẻ tiêu biểu trong những năm kháng chiến chống Mĩ. Với lối văn trẻ trung sinh động, hồn nhiên mà sâu lắng, những bài thơ viết về hình tượng thế hệ trẻ Việt Nam qua hình ảnh những cô gái và anh bộ đội trên tuyến trường sơn trong cuộc kháng chiến đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. bài thơ về tiểu đội xe không kính là một bài thơ như thế.

những chiếc xe không kính – hình ảnh thơ dung dị khiến nhan đề bài thơ thật đặc biệt – dường như tác giả sắp viết một truyện dài. hình ảnh đó đã làm nổi bật hình ảnh những người lính trẻ, những người lính tráng thời bấy giờ: trẻ trung, sôi nổi và có phần táo tợn, tài tình. Không biết nhà thơ đã từng ngồi trong buồng lái hay trực tiếp cầm lái, nhưng giọng thơ thật sôi động, tự nhiên và xúc động.

không có pha lê không phải vì xe không có pha lê. bom và bom đã làm vỡ cửa sổ

Từ ngôn từ, văn phong, nội dung đến nhịp thơ đều rất tự nhiên, mộc mạc, giàu sức gợi. câu thơ làm hiện ra trước mắt người đọc một hình ảnh lạ lùng: những chiếc xe không cửa sổ. mặt khác, cách lý giải của tác giả về những chiếc xe đặc biệt ấy cũng rất hiện thực đến mức vạch mặt một chiếc xe bị bom giật, bom rung – những động từ mạnh làm nổi bật hình ảnh, hình ảnh và chất thơ. hai câu thơ thật tự nhiên, không có những hình ảnh đẹp đẽ, tráng lệ, không có những hình ảnh tượng trưng, ​​giọng thơ hơi hàm súc tạo nên điểm xuất phát ấn tượng cho bài thơ. sau đó, ở khổ cuối của bài thơ, tác phẩm tiên hiệp tái hiện lại hình ảnh chiếc xe:

không kính, không đèn, không mui xe, cốp xe bị trầy xước,

Những chiếc xe này bị biến dạng, gần như bị phá hủy hoàn toàn. bom đạn, chiến tranh khốc liệt đến nhường nào: sắt thép là thế, sức người kém hơn bao nhiêu. Tuy nhiên, những chiếc xe ấy, trong mắt Phạm Tiến Duật vẫn hiện lên vẻ đĩnh đạc, hiên ngang. và vô hình trung, chúng đã trở thành biểu tượng đặc trưng của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. và có lẽ vì lẽ đó mà chúng đã tô đậm thêm hình ảnh những người lính lái xe, thế hệ trẻ Việt Nam xuất hiện trong cuộc kháng chiến trường kỳ. lời thơ như lời kể, lời tự sự chân thành:

ở trong buồng lái, nhìn xuống đất, nhìn lên trời, nhìn về phía trước.

câu thơ ngắn và nhanh, các từ lặp lại tạo nên nhịp điệu rất sôi động cho câu thơ. và sau đó là câu chuyện về những thứ đã thấy trên đường đi:

Tôi thấy gió thổi vào và tôi dụi đôi mắt cay xè của mình. Tôi đã nhìn thấy con đường dẫn thẳng đến trái tim mình. Tôi nhìn thấy những vì sao trên bầu trời và đột nhiên những cánh chim dường như lao vào cabin.

Những người lính vẫn bình tĩnh lái xe, vẫn nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng về phía trước. lời bài hát nhịp nhàng, sôi động như lời bài hát khiến không khí bài thơ rất vui tươi, sôi động.

Khi chiếc xe bị phá hủy và phá hoại như vậy, rất nhiều khó khăn đã nảy sinh chỉ vì chiếc xe không có kính:

không kính thì có bụi, tóc xịt trắng xóa như người già không đeo kính, vâng, quần áo ướt sũng, mưa tầm tã, mưa tầm tã như ngoài trời

nhưng mà, không có kính, tác giả là bụi, cho nên có mưa, mưa xối xả. cấu trúc thơ lặp lại – à – toát lên phong thái hiên ngang, dũng cảm, coi thường mọi khó khăn. những câu thơ như tiếng cười sảng khoái, tiếng cười để lạc quan yêu đời, bỏ qua mọi khó khăn, vui lên làm phấn chấn bạn bè đồng trang lứa. và sự lạc quan đó cũng được thể hiện qua hành động:

không cần tắm rửa, họ phì phèo điếu thuốc, nhìn nhau với nụ cười trên môi, ha ha.

và:

Bạn chưa cần thay đồ, hãy lái xe thêm một trăm km nữa, mưa sẽ tạnh, gió lùa sẽ nhanh khô.

Giọng thơ vang lên rộn ràng, căng tràn sức sống của tuổi mười tám, đôi mươi. những người lính trẻ đó thật dẻo dai và trẻ trung, tháo vát. Không chỉ vậy, họ còn là những người bạn đồng hành cùng dán và vẽ. cuộc gặp gỡ của những chiếc xe tương tự đã gắn kết những người lính và qua những tấm kính vỡ, họ đã gặp nhau:

bắt tay qua mảnh kính vỡ.

ồ! thật kỳ lạ! Những con người ấy vốn dĩ là những người xa lạ, nhưng giờ đây, giữa khó khăn họ lại gần gũi, thân thiện, chào hỏi nhau như những người bạn trong gia đình. và rồi những kỉ niệm như kết tủa trong tâm trí nhà thơ. có lẽ vì cũng là quân nhân nên anh rất hiểu và thông cảm cho đồng nghiệp, đồng đội:

chia sẻ đĩa và đũa là gia đình

gia đình: hai từ thân thương gợi lên hình ảnh những người cùng dòng tộc. họ, những người lính núi dài ấy cũng máu nóng, máu sôi với khát vọng giải phóng miền nam, giải phóng đất nước:

Ô tô tiếp tục chạy vì phía trước là phía nam, miễn là trong xe có một trái tim.

dù xe có bị tàn phá, hỏng hóc đến đâu, dù khó khăn đến đâu, miễn là trong xe có một tấm lòng. bên phải! Chính tình yêu Tổ quốc đã chèo lái, là động lực, giúp những người lính có thêm sức mạnh khi đối mặt với khó khăn. lời thơ mượt mà như một lời tuyên bố chắc nịch và súc tích. dòng cuối của bài thơ có lẽ là dòng hay nhất nói lên sức mạnh của con người trong tình yêu, tình yêu đất nước, yêu đồng bào và tình yêu ấy trở thành ý chí – kiên cường và bền vững. nhưng đồng thời nó cũng mở ra, gợi mở cánh cửa ánh sáng: phương Nam, nơi nhân dân luôn chờ đợi cách mạng.

những ca từ đầy chất thơ của tác phẩm tiên hiệp, một nét thơ trẻ trung, nhí nhảnh, tinh nghịch và có phần hóm hỉnh đã làm cho bài thơ rất đặc sắc, rất xúc động. lời lẽ giản dị, chất thơ mà nhạc, chất thơ trong nhạc, hình ảnh sáng tạo mà vẫn chân thực… tất cả những yếu tố đó đã tạo nên dấu ấn riêng cho tác phẩm, in sâu vào tâm trí mọi người. đọc một thế hệ anh hùng trẻ tuổi. Trong những năm tháng gian khổ, ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

phân tích bài thơ về tiểu đội không kính – bài mẫu 4

bọn họ bị mắc kẹt ở trong rừng trúc sơn, hai người đều ở cuối xa. đường ra trận mùa này đẹp quá. trường đông nhớ trường tây. ..

(trường Sơn Đông, trường Sơn Tây)

Năm 1970, tập thơ “Vầng trăng và vầng lửa” của Phạm Tiến Duật ra đời. Giọng thơ của người lính hành quân trên tuyến đường Trường Sơn nghe hào hùng, trẻ trung và hồn nhiên đến lạ. Thơ văn tế nhị thể hiện tình cảm yêu nước và khí phách anh hùng của thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống nước thống nhất qua hình ảnh người thanh niên xung phong và người chiến sĩ trên tuyến đường trường sơn. ngọn lửa và đèn, trường học sơn đông, trường học sơn tây, bài thơ về tiểu đội ô tô không cửa sổ, cho bạn thanh niên xung phong, … đó là những bài thơ rất nổi tiếng của người lính trẻ viết bài thơ này.

Bài thơ về tiểu đội xe không kính được ông viết vào năm 1969, khi cuộc chiến tranh chống Mỹ đang diễn ra vô cùng ác liệt. Máy bay Mỹ đã thả hàng nghìn, hàng vạn tấn bom đạn và chất độc hóa học trên tuyến đường cao tốc chiến lược mang tên Đường Hồ Chí Minh. các trọng điểm chìm trong khói lửa suốt đêm ngày. những đoàn xe quân sự liên tục di chuyển. bài thơ thể hiện sự gan dạ, dũng cảm, lạc quan của người lính chỉ huy đoàn vận tải quân sự, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước.

bài thơ cho thấy chiếc xe không kính vượt qua bom băng và tiến thẳng về phía trước. một hình ảnh rất độc đáo bởi xưa nay hiếm thấy những chiếc ô tô không kính chạy qua mọi nẻo đường. tuy nhiên, trên con đường chiến lược trường sơn vẫn có những phương tiện ấy, không phải đôi ba chiếc mà là hàng vạn chiếc xe “không kính” vượt qua mưa bom, bão đạn, đi qua mọi địa hình – đèo cao, đèo dốc. những con dốc, khe núi, sông ngầm, chạy trong mưa gió, trong đêm tối để vận chuyển hàng hóa, chi viện cho chiến trường miền Nam. hình ảnh độc đáo bởi chiếc xe mang sức mạnh kì diệu của một dân tộc chiến đấu với một quyết tâm sắt đá “xẻ núi cứu quê hương”. điều đó cũng cho thấy cuộc chiến đấu diễn ra trên mặt trận giao thông vận tải, trên con đường chiến lược sơn cước vô cùng ác liệt, ác liệt, con người và vũ khí kỹ thuật mang tầm vóc sử thi lớn lao.

Hai dòng đầu tiên giải thích rõ ràng lý do tại sao chiếc xe “không có kính”. cấu trúc câu dưới dạng “câu hỏi-câu trả lời”. ba từ “không” đi liền với nhau, hai điệp ngữ “bùm bùm, bom rung” thể hiện “phẩm chất người lính” một cách hồn nhiên. bài thơ đầy chất văn xuôi, nhưng vẫn thú vị để đọc:

không có kính không phải vì ô tô không có kính

Mười bốn câu thơ sau thể hiện hình ảnh những người lính lái xe dọc tuyến đường qua hàng loạt hình ảnh hoán dụ: ánh mắt, mái tóc, trái tim, khuôn mặt, nụ cười … một tư thế … lái xe đẹp “dung dị”: ung dung, thong thả. với đôi mắt mở to, với đôi mắt u ám, trực diện, với đôi mắt cao, với tầm nhìn về tương lai. dũng cảm và tự hào:

cẩn thận trong cabin, chúng tôi ngồi nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng

hai từ “tôi cảm thấy” với sự ám chỉ “nhìn” được lặp lại 3 lần; giọng thơ, nhịp điệu mạnh mẽ, xúc động.

Phạm Tiến Duật dành trọn một khổ thơ cho những gì người lính “thấy”. những câu sau xuất hiện với nhiều hình ảnh như một đoạn phim quay nhanh:

Tôi thấy gió lùa vào tôi dụi đôi mắt cay cay, tôi thấy con đường đi thẳng vào lòng mình, tôi thấy những vì sao trên trời bỗng chốc những cánh chim như rơi xuống, như lao về phía căn nhà gỗ. .

Có gió thổi, có cánh chim buổi tối và ánh sáng của các vì sao vào ban đêm. gió được nhân hoá và chuyển hoá cảm giác thật ấn tượng: “gió đến xoa mắt cay cay”. xe chạy suốt đêm, xe không có kính nên mới có cảm giác “đắng lòng” như vậy. con đường đi theo là con đường chiến lược cụ thể, cũng có nghĩa là “chạy thẳng vào lòng”, con đường thẳng thắn chiến đấu vì lợi ích của cuộc sống, vì tình yêu, vì độc lập, tự do của đất nước và dân tộc. . các từ “thấy” … “thấy …” “thấy …” cùng các chữ “sa”, từ “vội” góp phần miêu tả tốc độ phi thường của chiếc xe quân sự bay lượn, lướt qua làn đạn. !

nếu khổ thơ trước nói đến “gió” thì khổ thơ sau nói đến “bụi”. gió bụi tượng trưng cho khó khăn và thử thách. từ “vâng” nghe như một sự thách thức, một sự chấp nhận nhưng sự chủ động của người lính lái xe:

không có kính thì có, có bụi, bụi rắc tóc trắng như người già. không cần rửa, họ phì phèo điếu thuốc, nhìn nhau cười ha ha!

đầy những chi tiết hiện thực đầy chất thơ. mái tóc xanh của một cậu bé sau khi cách trường vài dặm đã có một sự thay đổi đáng sợ: “bụi rắc tóc trắng như một ông già”. một hình ảnh so sánh hóm hỉnh và độc đáo, một phong cách hút thuốc rất “lính”. một nụ cười lạc quan, yêu đời và hồn nhiên “ha ha” thoát ra từ một “khuôn mặt lem luốc” khi đồng đội gặp nhau: “nhìn nhau cười ha ha!”.

sau “bụi” là “mưa”: “mưa xối xả như bên ngoài”. rồi người lính thử đủ mọi khó khăn: gió bụi, mưa rừng. mưa đã “trút” thì tất nhiên phải “xả”. ướt sạch bao nhiêu quần áo vì ngồi trong cabin mà “như ở ngoài trời”. chấp nhận, táo bạo, lạc quan:

không kính thì có, ướt áo, mưa tầm tã, mưa như trút nước như ở ngoài trời, không cần đổi tài xế đi trăm km nữa, mưa tạnh, gió lùa mau khô!

Nhiệt huyết cách mạng của người lính không còn là điều gì trừu tượng mà được đo bằng “trăm km chạy xe” trên các nẻo đường. con đường ấy trong bom đạn, mưa gió đã phải trả giá bằng mồ hôi và máu. câu thơ 7 chữ với 6 biện thể hiện cảm giác tự do, tràn đầy năng lượng, bất chấp mọi khó khăn: “Mưa tạnh, suối cạn mau!”.

Câu 5 và 6 ghi lại hình ảnh một tiểu đội xe không cửa sổ và họ đóng quân ở giữa rừng. sau những chuyến đi gian khổ, những ngày mưa bom, bão đạn, họ gặp lại nhau, cái bắt tay cũng rất độc đáo. trong niềm vui của cuộc gặp gỡ có biết bao mất mát, hy sinh:

… đã gặp gỡ những người bạn để bắt tay nhau từ những mảnh kính vỡ.

có một bữa tối đoàn tụ. tình bạn thân thiết cũng là tình anh em. cảnh võng dã chiến “bấp bênh” bên đường. rồi đoàn xe “lại đi, lại đi”, nối tiếp nhau về phía trước. trên đầu họ, trong tâm hồn họ “bầu trời trong xanh”, tràn đầy hy vọng, lạc quan:

bếp ăn vương giả giữ mình giữa trời chung bát đũa, nghĩa là gia đình tắc đường, đến rồi đi, trời cũng xanh.

khổ cuối của bài thơ làm nổi bật sự khốc liệt và khốc liệt của chiến tranh: một xe vận tải quân sự chở đầy thương binh. Đã có rất nhiều chiến binh dũng cảm hy sinh tính mạng. chiếc xe như một chiến binh mạnh mẽ, 3 cái “không” và duy nhất 1 cái “có”: “không kính, không đèn – không mui, thùng xe trầy xước.” xe hơi. “does he have a heart?”, tức là có tất cả: “heart” – một hình ảnh hoán dụ thể hiện sức mạnh chiến đấu. ý chí chiến đấu, ý chí kiên cường của người lính trẻ đi đầu vì sự nghiệp giải phóng miền nam thân yêu, vì sự nghiệp thống nhất đất nước:

ô tô tiếp tục chạy vì phía trước là phía nam; miễn là có một trái tim trong xe

Xem Thêm : Chủ thể là gì?

“trái tim” đó có phải là trái tim yêu thương, trái tim đang sôi lên vì giận dữ? Câu thơ của Phạm Tiên Du có được khơi nguồn từ câu nói nổi tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu: “Miền Nam ruột thịt”?

Bài thơ tiểu đội xe không kính của pham tien duat rất hay. hiện thực rõ nét về cuộc sống chiến đấu gian khổ nhưng anh dũng của những người lính lái xe trên những con đường núi dài trong thời đại chiến tranh đã được kết hợp hài hòa với cảm hứng sử thi để tạo nên những vần thơ đầy “góc cạnh” đầy ấn tượng. có gió bụi, mưa bay, cánh chim, ánh sao rơi lao xao vào cabin chiếc xe không kính thì cũng có những câu thơ rất gần với phong cách văn xuôi thường tràn trong bài thơ. có nhiều câu thơ mang nét mộc mạc, bình dị, rất chất lính trong chiến tranh:

– “không có kính không phải vì xe không có kính, bom nổ, bom vỡ kính …”

– “không kính thì có, có bột, xịt cho tóc trắng như xưa …”

– “không kính thì có, áo ướt, mưa như trút nước, mưa như trút nước …”

– “không có kính, xe không có đèn

– không mui, cốp có vết xước … “

Nếu bỏ những dòng đó mà thay vào đó những dòng thơ mượt mà, sáng sủa thì chắc chắn sẽ làm mất đi giọng điệu, chất thơ, hồn thơ của bài thơ về tiểu đội xe không kính. như vu quan phuong đã nhận xét: “Vị trí đặc biệt của thơ phú tiên du: dùng cuộc sống để nói về tình cảm. Chiều sâu cảm xúc trong thơ cần được tìm thấy trong cuộc sống chứ không phải ở lời nói.”

hình ảnh những chiếc ô tô không có kính thực sự thú vị và độc đáo. những chiếc xe không kính đã nâng cao hình ảnh của những người lái xe trên tuyến đường. họ là những chiến binh sống và chiến đấu hiên ngang, dũng cảm bất chấp mọi khó khăn, hiểm nguy, lạc quan, nhiệt huyết, yêu đời, hy sinh chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng miền nam thống nhất đất nước.

ngoài ẩn dụ, so sánh, ám chỉ, ám chỉ, phúng dụ còn rất thành công trong việc tạo ra những hình ảnh hoán dụ (gió, bụi, mưa, mắt, tóc, trái tim, …) vẻ đẹp tâm hồn và ý chí của người chiến sĩ lãnh đạo. chiếc xe phía trước.

Tuyến đường chiến lược Trường Sơn là một chiến công mang đậm màu sắc huyền thoại của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Bài thơ về chú tiểu không đeo kính của Phạm Tiến Duật đã làm sống lại một thời gian khổ và oanh liệt của người lính năm xưa. phẩm chất thơ anh hùng. bài thơ cũng là một minh chứng đẹp đẽ về hậu phương lớn lao ra tiền tuyến anh hùng.

phân tích bài thơ về tiểu đội không kính – văn mẫu 5

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, những người lính lái xe trên tuyến đường chiến lược đã được đi vào văn học như những anh hùng. Bài thơ “Tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật là một trong những bài thơ hay nhất viết về những người lính lái xe trên đường dài.

đầu bài thơ thể hiện sự khốc liệt của chiến tranh và làm nổi bật tư thế của người lính lái xe:

“không có kính không phải vì xe không có độ giật, máy bơm rung, kính vỡ. Trong cabin, ta ngồi nhìn đất, ta nhìn trời, ta nhìn thẳng.” >>pham tien duat thuộc thể loại nhà thơ thích đùa giỡn. giọng điệu tưng tửng “không có kính không phải vì xe không có kính” đã truyền cho nhà thơ tinh thần lạc quan của những người lính lái xe trước sự khốc liệt của chiến tranh. đùa, nhà thơ giải thích tại sao “ô tô không có cửa sổ”:

“bom giật, bom làm vỡ kính”.

Đối lập với hình ảnh khốc liệt của chiến tranh là phong thái “dĩ hòa vi quý” của người lính lái xe. hình ảnh “thản nhiên” ngược càng làm nổi bật tư thế của người lái xe. và nhà thơ đã dẫn đến một khám phá bất ngờ:

“Nhìn đất, nhìn trời, nhìn về phía trước.”

mỗi khám phá đều là ấn tượng, ấn tượng về sự gian khổ của người lính khi ra trận (thấy gió dụi mắt cay cay) và ấn tượng về tình yêu đất nước của người lính (thấy được con đường dẫn thẳng đến trái tim); ấn tượng về tinh thần lãng mạn của anh ấy:

“Tôi nhìn thấy những vì sao trên bầu trời và đột nhiên đôi cánh của những con chim như buông xuống, lao về phía cabin.”

Hình ảnh “như rơi”, “như chạy” mô tả chuyển động gấp rút của đoàn xe vào trận chiến.

tác giả lại chuyển nhịp, từ dòng 2/2/2 (nhìn đất / nhìn trời / nhìn thẳng), 2/2/3 (như rơi / ào ào / vào ca-bin) sang câu thơ. 3/1/3 (không có kính / có / có bụi). và mỗi cặp đối lập mô tả những khó khăn của những người lính và sự lạc quan của họ:

“không có thấu kính, có, có bụi. bụi phun tóc trắng như cũ”. không cần rửa sạch, châm một điếu thuốc, nhìn chính mình nở nụ cười trên mặt, ha ha! ”

Cái hay ở đây là tác giả đã đặc tả được nỗi vất vả của người lính lái xe “không kính”. Câu thoại “bụi rắc tóc trắng như cố nhân” gợi lại câu thoại “đoàn quân tây không mọc tóc” của Quang Dũng. đúng là một sợi tóc cũng có thể khiến chúng ta kinh ngạc trong hai cuộc chiến chống Pháp và chống lại chúng ta.

Hai cặp đối lập này, tác giả tiếp tục khám phá những gian khổ của người lính lái xe không kính và tính cách của anh ta:

“không kính thì có, áo ướt, mưa xối xả, mưa xối xả như ở ngoài, không cần đổi tài xế đi trăm km nữa, mưa tạnh, gió lùa mau khô”

hình ảnh “tóc trắng rắc bụi như cố nhân” hay “mưa tầm tã, mưa tầm tã như ngoài trời” gợi lên tình yêu thương đối với những người lính lái xe ra mặt trận. Câu thơ của tác phẩm tiên hiệp không chỉ hay về hình ảnh mà còn về âm thanh, những thước đo (đeo kính, áo ướt, xe chở dầu, lái xe …) thể hiện sự dẻo dai của người lái xe trên đường chinh chiến. âm hưởng đều đều, đặc biệt cuối bài thơ gần như êm dịu một phút lắng đọng trong tâm hồn người nhạc trưởng:

“mưa tạnh, gió mau khô”

Tình bạn thân thiết của người lái xe cũng được phát hiện thông qua quá trình phát hiện các đặc điểm riêng của nó. đi chơi “từ trong bom rơi”, gặp gỡ bạn bè “bắt tay qua kính vỡ” (bàn tay nhân ái – công bằng), nấu ăn bằng bếp gần như không khói thực sự vì khói là một thảm họa cho những người lái xe. họ yên nghỉ trên chiếc “võng đóng đinh bên đường” và không thiếu những giây phút bình yên: “lại đi, lại lên trời xanh”.

tác giả khám phá ra tất cả các khía cạnh của hư không (xe không có cửa sổ) để dẫn đến một lời có (có tâm) để chủ đề sâu sắc của bài thơ được phát triển đầy đủ:

“không kính: nên xe không có đèn, không có mui, thùng xe có vết xước. Xe vẫn chạy vì mặt tiền hướng Nam: miễn là có lòng trong xe.”

tác giả thay đổi giọng điệu, cách nói vui nhộn của những khổ thơ đầu dần nhường chỗ cho cách nói trang trọng và thiêng liêng:

“ô tô tiếp tục đi vì phía trước là phía nam: miễn là có một trái tim trong xe.”

Hình ảnh “miền nam ra mặt trận” nói lên nhiệm vụ nặng nề chi viện cho chiến trường miền nam của “tiểu đội xe không kính” và gợi lên tình cảm thiêng liêng của người lính lái xe đối với quân thù miền Nam. và bộ tứ cuối cùng (chỉ có trái tim trên xe) đã bù đắp cho bao gian khổ, sự tàn khốc của chiến tranh. sức mạnh của lòng yêu nước đã đánh bại kẻ thù hung bạo.

“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một bài thơ hay và độc đáo. khám phá đề tài, nhà thơ đã khai thác hết những khía cạnh bất ngờ, thú vị. cao độ thay đổi phù hợp, nhịp điệu luôn thay đổi. Hình ảnh người lính lái xe “Nam tiến” được khắc họa đậm nét, sinh động, làm nổi bật tính cách của những người anh hùng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

phân tích bài thơ về tiểu đội không kính – văn mẫu 6

Phạm Tiến Duật (1941-2007) là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca Việt Nam thời kỳ Kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thơ ông chủ yếu viết về hình tượng thế hệ trẻ trong Kháng chiến chống Mỹ cứu nước. hình ảnh các chiến sĩ, thanh niên xung phong trên tuyến đường lịch sử Trường Sơn, tiêu biểu là bài thơ “Chú tiểu đội không kính” ra đời năm 1969 khi cuộc kháng chiến ác liệt của quân và dân ta đang mở ra. Qua cách miêu tả độc đáo về những chiếc xe không kính, nhà thơ đã làm nổi bật tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan bất chấp khó khăn, hiểm nguy và ý chí chiến đấu giải phóng miền nam của những người lính lái xe dọc tuyến đường trường sơn.

trước hết, cảm hứng của bài thơ bắt đầu bằng một hình ảnh độc đáo: hình ảnh những chiếc ô tô không có cửa sổ của tác giả phúng điếu, những chiếc ô tô không có cửa sổ là hình ảnh thật, thật đến mức khỏa thân.

“không có kính không phải vì xe không có kính.

cấu trúc câu dưới dạng câu hỏi và đáp án, ba từ “không” đi liền với nhau, thể hiện cách nói hồn nhiên đầy chất lính, tác giả giải thích nguyên nhân mất cửa kính ô tô là do bom giật, máy bơm rung động, đó là lý do chính. Chiến tranh khốc liệt là thế, nhưng trải qua mưa bom, bão đạn, những chiếc xe ngày càng biến dạng.

“không có kính, rồi không có đèn, không có mui xe, thân cây bị trầy xước”

nhưng kỳ diệu thay, những chiếc xe hư hỏng đó vẫn đủ sức mạnh vượt qua mọi thử thách của trận mưa bom, hướng về miền nam thân yêu, những người lính lái xe đã tạo nên sức mạnh đó.

Vẻ đẹp đầu tiên mà chúng ta nhìn thấy ở người lãnh đạo các chiến sĩ là tư thế hào hoa, dũng cảm, tâm hồn trẻ trung, lãng mạn:

“bình tĩnh lại gian hàng, chúng ta ngồi xuống, nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”

từ “ung dung” được đảo ngữ ở câu đầu kết hợp với từ “nhìn” được lặp lại ba lần thể hiện tư thế cao đẹp của người chiến sĩ, họ vẫn thản nhiên ngồi trong cabin khi sự sống và cái chết chỉ là gang tấc. cm. Bên cạnh đó, cụm từ “mắt nhìn thẳng” được dùng rất hay, nhìn thẳng là nhìn con đường trước mặt, nhìn thẳng vào khó khăn nhưng không ngại né tránh.

Không chỉ đẹp ở tư thế kiêu hãnh và dũng cảm, người lính còn rất quyến rũ bởi tâm hồn trẻ trung và lãng mạn.

“Tôi thấy gió lùa vào tôi dụi đôi mắt cay xè. Tôi thấy con đường đi thẳng vào lòng mình. Tôi thấy những vì sao trên trời bỗng chốc những cánh chim như rơi xuống, như lao về phía cabin “

những câu thơ nhanh, gấp, nhịp nhàng như bánh xe lăn đều trên đường, bằng cách sử dụng câu thơ ngụ ngôn “thấy” kết hợp động từ “xoa, chạy thẳng, sa, ào”, tác giả đã diễn giải để miêu tả cảm giác mạnh mẽ, đột ngột. của người lính lái xe khi ngồi trong ca-bin, qua ô cửa kính vỡ trong tư thế “ngó đất, ngó trời, ngó trước”, người lính như cảm nhận được vẻ đẹp riêng của thiên nhiên ”. con đường đi thẳng vào lòng người ”là hình ảnh độc đáo gợi lên tốc độ của dòng xe lao nhanh trên quốc lộ, nó cũng là hình ảnh tượng trưng cho con đường cách mạng, con đường giải phóng miền nam, những người lính một mình anh lo. về nhiệm vụ mà không hoảng sợ, như thể tất cả thiên nhiên đang đồng hành cùng họ trong quá trình thực hiện.

Có bao nhiêu nguy hiểm trên chiếc xe mà không có sự tôn trọng, nhưng người lính vẫn vượt qua hoàn cảnh với tinh thần lạc quan, bất chấp mọi khó khăn.

“không có kính, đúng là có bụi, bụi rắc tóc trắng như một ông già không cần gội, phì phèo điếu thuốc, bọn họ nhìn nhau nở nụ cười trên mặt, ha ha. không đeo kính thì có, áo mưa ướt sũng, mưa xối xả như ngoài kia mà cần thay, chạy xe trăm cây số thì mưa tạnh, suối mau khô ”

Ngoài sự khốc liệt của chiến tranh, những người lính còn phải chịu đựng nhiều gian khổ do sự khắc nghiệt của thiên nhiên và thời tiết, những câu thơ trên mang đầy tính hiện thực trên chiến trường, hiện thực đầy khó khăn. nhưng những người lính đã bình thường hóa khó khăn đó, chấp nhận nó như một lẽ tất yếu, vẫn đùa cợt, đùa cợt: “nhìn nhau cười ha hả”, tâm hồn tươi đẹp rực rỡ như vậy sao? đó còn là bản lĩnh kiên cường của người chiến sĩ, vẻ đẹp ấy còn được tác giả khắc họa bằng giọng thơ trẻ trung như những lời từ miệng “có kính thì có bụi”, gian khổ ấy nhưng qua cái nhìn của người lính. nó vô cùng suôn sẻ, bởi vì lòng dũng cảm đã trở thành cốt lõi, bản chất của một người lính trong cuộc chiến.

Trong những khó khăn thử thách tình bạn thân thiết, những người đồng đội của họ ngày càng trở nên căng thẳng và thân thiết.

“Ô tô rơi vì bom đạn. Mình đến đây thành lập đội hình gặp gỡ bạn bè trên đường để bắt tay nhau qua lớp kính vỡ”.

Nhịp điệu của bài thơ như lắng lại, những người lính nói lên cả những người bạn đồng hành của mình và của chính mình, họ gặp nhau từ nơi bom rơi đạn lạc, nghĩa là từ trong ác liệt của chiến tranh, họ cũng đoàn kết và đã chia sẻ và trở thành bạn bè, họ chào nhau bằng những cử chỉ rất thân mật “bắt tay nhau qua mảnh kính vỡ”. / p>

Khung cảnh sinh hoạt, bữa ăn, giấc ngủ của người lính được thể hiện bằng hai hình ảnh “bếp núc, cửa võng” đều tạm bợ, nhưng cách nhìn, cách nghĩ thật xúc động: “đó là gia đình” họ coi nhau như anh em trong nhà. gia đình, càng khó khăn, họ càng gần nhau, tiếp thêm sức mạnh để họ dấn thân vào con đường mới và giành lại thắng lợi.

cụm từ “lại đi” mang ý nghĩa khẳng định đoàn xe không ngừng tiến về phía trước khẩn trương và kiên cường, hình ảnh ẩn dụ “trời thêm xanh” gợi lên tâm hồn lạc quan “tràn trề niềm tin”, hi vọng của người lính lái xe. chiếc xe hơi.

Bốn dòng cuối của bài thơ đã vẽ nên bức chân dung tuyệt vời của người lính bằng ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam và lòng yêu nước nồng nàn của anh:

“không kính nên xe không có đèn, không có mui, cốp có vết xước, xe vẫn chạy vì mặt tiền hướng nam chỉ cần có lòng trên xe”

sử dụng biện pháp liệt kê “không kính, không đèn, không mui xe, cốp xe trầy xước” kết hợp với phép liên tưởng “không”, hai dòng đầu của khổ thơ không chỉ nhấn mạnh sự thiếu thốn về chất liệu mà còn gợi tả nỗi đau mất mát của đội xe không kính do bom đạn của địch càng về cuối càng ác liệt, nhưng điều kỳ lạ là những chiếc xe không còn nguyên vẹn. tiếp tục đi “xe vẫn đang chạy về phía nam phía trước”

câu thơ cuối như một tấm lòng, cũng như một lời giải thích về vạn vật đẹp và lạ: “chừng nào còn có tấm lòng trong xe”

trái tim là hình ảnh hoán dụ, là hình ảnh yêu nước nồng nàn, là trái tim của ý chí chiến đấu giải phóng miền nam thân yêu, là trái tim quả cảm, trái tim ấy có sức mạnh vô hạn, mạnh mẽ hơn bất cứ ai. sâu bọ nguy hiểm, mạnh hơn mọi bom đạn, mạnh hơn cả cái chết, sức mạnh quyết định thắng lợi không phải là vũ khí, mà là con người có tấm lòng yêu nước nồng nàn, kiên trung, dũng cảm, có thể nói câu thơ hay nhất ở câu thơ cuối là như con mắt của bài thơ, soi sáng chủ đề, sáng ngời vẻ đẹp của hình tượng người lính.

Thực tế là ở thể thơ tự do, ngôn ngữ giản dị, tự nhiên, giọng điệu pha chút tinh nghịch, hình ảnh thơ chân thực, độc đáo “Bài thơ tiểu đội xe không kính” của tác giả Phạm Tiên Duật. “anh đã khắc họa thành công bức chân dung độc đáo về người lính lái xe ô tô tải tầm xa với vẻ đẹp tâm hồn giàu cảm xúc, tinh thần của anh là đại diện cho vẻ đẹp của những người lính Anh trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. chủ nghĩa anh hùng.

“đốn núi cứu nước, nhưng lòng phơi phới cho tương lai”

chúng tôi sẽ luôn yêu quý và tự hào về họ: những người đẹp nhất của thời đại Hồ Chí Minh.

phân tích bài thơ về tiểu đội không kính – văn mẫu 7

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta là một bản anh hùng ca bất hủ. Trong những năm tháng chí khí xẻ dọc Trường Sơn cứu nước sục sôi, nhân dân miền Bắc đã không tiếc công sức, sức của, chi viện cho miền Nam ruột thịt. quân trùng điệp ra tiền tuyến và phò tiên du cũng có mặt trong đội đó. ông đã tôi luyện và trưởng thành trong chiến tranh ác liệt và trở thành một nhà thơ-chiến sĩ. chùm thơ: chùm thơ về chùm xe không cửa kính nhớ gửi cô thanh niên xung phong đạt giải nhất cuộc thi thơ báo văn nghệ năm 1969.

Thơ tiến bộ không thu hút người đọc bằng hình ảnh lãng mạn hay ngôn ngữ mềm mại trau chuốt, giọng điệu du dương … ngược lại, người đọc thích thơ bạn vì sự sống động, tự nhiên và có đường gân, táo bạo và độc đáo. bài thơ về tiểu đội xe không kính có thể coi là một tiêu biểu cho phong cách sáng tác của nhà thơ – chiến sĩ. Xuyên suốt bài thơ, Phạm Tiến Duật ca ngợi tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm, bất chấp khó khăn, nguy hiểm, sức trẻ sôi nổi và ý chí quyết tâm chiến đấu vì miền Nam xương máu của những người lính đi đầu trường sơn.

Bài thơ đã thể hiện thành công một hình ảnh độc đáo: những phương tiện giao thông không có kính chắn gió mà vẫn lên đường ra trận. Bên trong vẻ ngoài xấu xí, trầy xước của những chiếc xe không kính đó là cả một bề dày thành tích trong chiến đấu và điều đáng quý nhất là tấm lòng ngời sáng lòng yêu nước của những người lính trẻ.

ở đầu bài thơ, tác giả giải thích nguyên nhân khiến xe không có cửa sổ bằng những từ ngữ giản dị và tự nhiên:

không có kính không phải vì xe không có kính. bom và bom rung kính vỡ

Lý do cho điều này là rõ ràng. kính chắn gió của xe bị bom đạn ác liệt của giặc Mỹ làm vỡ nát. lời giải thích tuy đơn giản nhưng khả năng miêu tả rất xuất sắc, giúp người đọc hiểu rằng những phương tiện này đã trải qua trên chặng đường phía trước. xe ô tô giới thiệu, nhưng cũng là bước đầu tiên để giới thiệu chủ sở hữu của chúng.

Từ câu thơ thứ ba trở đi, hình ảnh người lính lái xe là nhân vật chính và những chiếc xe không kính trở thành cái nền làm nổi bật tính cách, phẩm chất cao đẹp của anh. Khi người lái xe bật động cơ của xe lăn, có nghĩa là trận chiến đã bắt đầu. sự sống và cái chết chỉ cách nhau trong gang tấc nhưng họ vẫn giữ được tư thế kiêu hãnh và tự tin hiếm có:

ở trong buồng lái, nhìn xuống đất, nhìn lên trời, nhìn về phía trước.

tính từ nhàn nhã đặt ở đầu câu nhấn mạnh tư thế chủ động đó. trong cái nhìn toàn cảnh của toàn thế giới, có niềm tự hào của người làm chủ tình hình, không tính đến mọi khó khăn, nguy hiểm. đối mặt với máy bay địch, các lái xe của ta thường rơi vào thế bị động. Vậy dựa trên cơ sở nào mà họ ra trận với thái độ ngạo mạn như vậy? chỗ dựa tinh thần to lớn nhất là sự chắc thắng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, là tình yêu của tất cả mọi người dành cho miền Nam thân yêu, là chân lý “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất tổ quốc, nhất định không chịu làm nô lệ”. “Họ hiểu rằng chiến trường và đồng đội đang cần vũ khí, lương thực, thuốc men … để có thể đánh kẻ thù bằng những đòn thế xứng đáng. Độc lập chủ quyền, tự do thiêng liêng của quê hương, của dân tộc, thôi thúc họ phải hành động .

Ai đã từng đặt chân đến trường hội họa thời chống Mỹ mới hiểu được những khó khăn, nguy hiểm của người lính lái xe. con đường được sơn gồ ghề và nguy hiểm. mùa mưa, mưa như thác đổ. mùa nắng xe bụi bay mù trời. vào những ngày trời quang mây tạnh, máy bay Mỹ liên tục thả bom, đạn vào những đoàn xe nối đuôi nhau ra tiền tuyến. xe có kính đã khó người lái, xe không kính còn khó hơn. lối viết hiện thực kết hợp với bút pháp lãng mạn tạo nên vẻ đẹp bất ngờ của những câu thơ:

“Tôi thấy gió lùa vào tôi dụi đôi mắt cay xè. Tôi thấy con đường đi thẳng vào lòng mình. Tôi thấy những vì sao trên trời bỗng chốc những cánh chim như rơi xuống, như lao về phía cabin “

Cảm giác của người lính lái chiếc ô tô không kính trên đường ra trận đã được nhà thơ miêu tả một cách chi tiết và sinh động. đoàn xe ô tô tạo nên một cơn lốc bụi mù trời. xe không có cửa sổ, gió thổi mạnh vào cabin khiến tài xế tưởng mình có thể nhìn thấy gió. khi gió cay xè đến chảy nước mắt, cách nói gió cay mắt dụi thật độc đáo và hóm hỉnh. dường như những người lính lái xe đang ngạo nghễ bất chấp khí hậu khắc nghiệt của núi rừng. Không còn một lớp kính ngăn cách con người với thiên nhiên nữa, nên nhận thức dường như tăng gấp đôi. ban đêm trên bầu trời sao, ban ngày chim say sưa chạy về khoang. xe tiến, đường lùi, người lái xe như thấy đường đi thẳng vào tim. câu thơ mang một ý nghĩa biểu tượng sâu sắc: con đường vào chiến trường miền Nam là đích đến của trái tim người lính.

những khó khăn, vất vả được miêu tả bằng những hình ảnh chân thực, giản dị nhưng để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc:

những chiếc xe bị bom rơi đến đây gặp gỡ bạn bè suốt chặng đường bắt tay nhau qua những mảnh kính vỡ. bếp hoàng gia cầm tôi trên trời chung bát đũa, nghĩa là gia đình kẹt vào đường cùng. chạy lại, trở về bầu trời xanh.

hai đoạn thơ hiện thực đến từng chi tiết, từng hình ảnh và miêu tả. lời thơ đậm chất văn xuôi, giản dị như lời ăn tiếng nói hàng ngày. xe không có cửa sổ, keo xịt tóc màu trắng như cũ. xe không kính, mưa rơi lất phất như ngoài hàng. điệp ngữ không cần thiết, hình ảnh phì phèo điếu thuốc, tiếng nói cười sảng khoái … làm nổi bật phẩm chất bình dị mà anh hùng của người lính trong chiến tranh. gian khổ tột cùng nhưng cũng vô cùng anh dũng. đó là niềm lạc quan thanh thản của một dân tộc, là lòng dũng cảm thuộc về bản chất con người Việt Nam. các bác tài đón nhận mọi việc với thái độ vui vẻ, thờ ơ xen lẫn sự dũng cảm, rất quân tử.

trong khó khăn, thử thách, tình đồng chí càng trở nên thiêng liêng, máu thịt hơn. những thiếu thốn về vật chất được thay thế bằng tình đồng chí:

ô tô bị bom rơi tôi đến đây gặp bạn suốt đường gặp bạn dọc đường bắt tay nhau qua mảnh kính vỡ. hoàng đế bếp núc mình trời chung bát đũa, nghĩa là gia đình bế tắc, đi thì đi, trời lại xanh.

Đến đây, mọi khó khăn, nguy hiểm đã được tháo gỡ, tạo cơ sở để tập thể cán bộ chiến sĩ từ khắp các chiến trường xông lên, lập nên những tiểu đội xe không kính. thương nhau hơn máu, sống chết có nhau, cùng chung lý tưởng và tình cảm cao đẹp: tất cả vì sự nghiệp giải phóng miền nam thống nhất đất nước.

có lẽ không có ngôn ngữ nào có thể diễn tả đầy đủ sự thông công và thông công thuộc linh trong hoàn cảnh đó. một bữa ăn chóng vánh giữa đất trời bao la của núi rừng trượng sơn, giấc ngủ không yên trên chiếc võng trên đường đi cũng đủ nói lên tất cả. và tò mò, nhà thơ bất ngờ phát hiện ra điều thú vị là những khó khăn, nguy hiểm của người lính lái xe không đeo kính đã biến thành sự thuận lợi không ngờ khi họ gặp trên đường ra mặt trận:

Cùng bạn bè bắt tay qua những mảnh kính vỡ.

Tình đồng chí đã sưởi ấm lòng người chiến sĩ, chắp cánh cho tâm hồn họ bay bổng. Họ cùng nhau nghỉ ngơi trong chốc lát, rồi lại lên đường, lại đi, đến những nơi cần hàng hóa, đạn dược. họ tin rằng ngày mai bầu trời sẽ xanh hơn và chiến thắng đang ở rất gần.

đoạn cuối của bài thơ thật hay. chủ nghĩa hiện thực gan góc và sự lãng mạn bay bổng hòa quyện:

Xem thêm: Lý thuyết chuyển động tịnh tiến của vật rắn, chuyển động quay của vật rắn quanh một trục cố định

không kính, nên xe không có đèn, không có mui, thùng xe có vết xước, xe vẫn chạy về hướng Nam: miễn là có lòng trong xe.

càng gần chiến thắng, càng khó, đó là quy luật. Cường độ chiến tranh ác liệt in rõ trên những chiếc xe vận tải quân sự: không cửa sổ, không đèn, không mui, thùng xe đầy vết xước do bom đạn kẻ thù. nhưng xe vẫn chạy về phương Nam – tiền tuyến lớn đang thúc giục vẫy gọi bởi có trái tim yêu nước cháy bỏng và trách nhiệm công dân trước vận mệnh của đất nước, của dân tộc. hình ảnh trái tim ở dòng cuối là một phép ẩn dụ rất có ý nghĩa nghệ thuật, vừa tôn vinh tầm vóc của những chiến binh anh dũng, vừa nâng cao giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ.

Bài thơ về tiểu đội xe không cửa sổ là một tác phẩm tự sự nhưng mang đậm chất trữ tình cách mạng. nhà thơ đã khắc họa hình ảnh những người lính lái xe với lòng cảm phục và tình cảm sâu sắc. họ là những người tự nguyện dấn thân, chịu gian khổ, chấp nhận hy sinh. ngôn ngữ thơ giản dị, tự nhiên mà giàu sức gợi cảm, hình ảnh sáng tạo, độc đáo, nhịp điệu tự do, phóng khoáng… tất cả những yếu tố đó làm nên cái hay, cái đẹp của bài thơ. nhưng điều đáng quý nhất vẫn là tình yêu thương, sự hóa thân của tác giả vào nhân vật để tìm tòi, khám phá những viên ngọc sáng trong tâm hồn thế hệ trẻ anh hùng của một dân tộc anh hùng.

phân tích bài thơ về tiểu đội không kính – văn mẫu 8

pham tien du là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. ông đã từng cầm súng chiến đấu và hoạt động trong đội nghĩa binh dọc theo dãy núi trượng sơn, gùi vũ khí từ hậu phòng ra trước: “xẻ thịt trượng phu vượt núi cứu nước. – nhưng trái tim anh đã phơi bày tương lai. (chủ nhân). niềm hân hoan háo hức của những chàng trai ra trận thuở ấy như ngọn đèn sáng, như ngọn gió lành thổi vào tâm hồn thi sĩ – chiến sĩ, làm cho giọng điệu thơ lục bát rất da diết, tràn đầy sức sống, rất nghịch ngợm. , vui vẻ và chi tiết.

bài thơ Tiểu đội xe không cửa sổ là tác phẩm tiêu biểu nhất của giọng thơ ấy, của hồn thơ ấy. Không rõ nhà thơ đã trực tiếp ngồi sau tay lái, hay ngồi trong chiếc taxi bên cạnh người lái xe bao nhiêu lần, nhưng ngôn ngữ, âm nhạc, cảm hứng và ý nghĩ của bài hát rất chân thực và sống động. tất cả, hiện lên một cách hồn nhiên, trực tiếp trước mắt người đọc: những chiếc ô tô không có cửa sổ, toàn bộ tiểu đội xe, tiểu đội chiến sĩ vận tải hân hoan, vui tươi nhưng rất xúc động, hào hoa, dũng cảm …

đầu bài thơ là hình ảnh mỉa mai: “những chiếc xe không cửa sổ”. kết thúc là một hình ảnh bất ngờ: “trong xe chỉ có trái tim”. Phải chăng biệt đội xe không kính có thể nhanh chóng lăn bánh xuống đường do … “trái tim ở tay lái”? mời các bạn nghe chú bộ đội lái xe, đọc thơ và suy ngẫm …

không có kính không phải vì ô tô không có kính

tường thuật, hoặc giới thiệu về đoàn xe? ngôn ngữ mộc mạc, nhịp điệu mượt mà gợi cảm. nó giống như một đoàn xe đang tiến về phía trước. những chiếc xe lạ – “không kính” (kính chắn gió) – nhưng anh dũng đi trên con đường hiểm trở bị kẻ thù đánh phá ác liệt: “bom giật, bom phá kính”. trên những chiếc xe đó, người lính vững tay lái. Khi nhấn ga để xe lăn vào trận, hai anh em kể những câu chuyện về mình và đồng đội:

ngồi trong buồng lái, chúng ta ngồi, chúng ta nhìn đất, chúng ta nhìn trời, chúng ta trực tiếp nhìn. chúng tôi thấy gió lùa vào, dụi đôi mắt cay xè, thấy con đường dẫn thẳng vào tim, thấy những vì sao trên bầu trời và bất chợt những chú chim như lao vào cabin.

đó là những bài thơ hiện thực, chân thực đến từng chi tiết. không có kính chắn gió, chắc chắn, xe phóng nhanh khiến người điều khiển phương tiện gặp nhiều khó khăn nguy hiểm. vốn là “cơn gió đưa mắt cay xè”. nào là “con đường đi thẳng vào tim” rồi “sao trên trời”, rồi “cánh chim” chợt, chợt như rơi, như lao – rơi, va, quăng,… trong cabin. , trên mặt, mũi, cơ thể. dường như chính nhà thơ đang ngồi sau tay lái, hay ngồi trong cabin những chiếc ô tô không có cửa sổ, nên từ ngữ mới sinh động, cụ thể, ấn tượng, gợi cảm giác thực như thế: cảm giác căng thẳng, căng thẳng, thách thức. nhưng người lính không run rẩy cũng không sợ hãi. ngược lại, tư thế vẫn kiêu hãnh, tinh thần vững vàng… họ vẫn “lặng lẽ trong cabin ta ngồi – nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng…”. h

một câu thơ có nhịp điệu rất cân đối: 2/2/2 và 2/2/2, đó là sự căng thẳng của chiếc xe lăn bánh, sự thanh thản, bình tĩnh, tự tin của người lái xe. “Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng … nhìn … nhìn … nhìn …”. những thông báo đó được nhấn đi nhấn lại cho thấy sự tập trung cao độ của người lái xe. hai khổ đầu của bài thơ diễn tả những gian khổ, khó khăn mà những người lính lái xe miền núi đã phải chịu đựng. Giữa khó khăn, anh em vẫn bình tĩnh, tự hào, bình tĩnh nêu cao tinh thần trách nhiệm, ý chí quyết tâm, dũng cảm ra mặt trận. không có kính chắn gió, chắc chắn, đoàn xe vẫn tiếp tục lăn bánh bình thường. những con chữ nhẹ nhàng và trôi chảy như một chiếc xe đang phóng nhanh trên đường cao tốc. có nơi nhịp nhàng và trong sáng như tiếng hát – bay bổng, vui tươi:

không có kính thì có, có bụi, bụi xịt tóc trắng như người già … chưa cần thay đồ, chạy xe trăm km nữa, mưa sẽ tạnh, gió lùa mau khô.

> >

Nếu ở hai khổ thơ trước là những cảm nhận về khó khăn, thử thách (dẫu sao chúng vẫn còn mơ hồ), thì ở đây, thử thách, khó khăn lại đến một cách cụ thể và trực tiếp. đó là “keo xịt tóc trắng” và “mưa, mưa như trút nước”, hậu quả không thể tránh khỏi của việc ô tô bị mất kính chắn gió. đối mặt với thử thách mới, người lính không hề nao núng. càng bình tĩnh và dũng cảm hơn, “không kính thì bụi… không kính thì áo ướt” – những câu thơ như lời lẽ thường tình, thô ráp nhưng cứng cỏi, toát lên một phong thái bất chấp mọi khó khăn. đằng sau thái độ đó là những tiếng cười, những lời hứa, là sự quyết tâm vượt qua khó khăn, nguy hiểm:

không cần tắm rửa, anh phì phèo điếu thuốc, họ nhìn nhau nở nụ cười trên môi, ha ha … không cần thay đồ, anh lái xe thêm một trăm km nữa, mưa tạnh, gió khô. nhanh chóng.

Cấu trúc của các câu thơ vẫn cân bằng và nhịp nhàng theo dao động cân bằng của bánh xe lăn. giọng điệu được hòa âm khá uyển chuyển: thanh bằng – dam (lừa đảo – điếu); thăm dò ý kiến ​​- giống nhau (bôi mặt – cười ha ha); thì bằng – trich (trăm cây – nhiều hơn số). và cuối câu thơ có câu thơ bảy tiếng, sáu thanh (“mưa tạnh gió mau khô”) gợi cảm giác nhẹ nhõm, lạc quan, thanh thản. đó là thứ âm nhạc sôi nổi của những năm mười tám đôi mươi. âm nhạc vui nhộn hài hòa trên những hình ảnh dí dỏm: “… anh phì phèo điếu thuốc – họ nhìn nhau cười ha ha” và một ý nghĩ bá đạo: “không cần thay đồ, chạy xe trăm cây số nữa” khiến thơ rộn ràng, sôi động, lúc nào cũng vội vã, như sự náo nhiệt, hối hả của đoàn xe trên đường.

nhưng đã có lúc đoàn xe dừng lại. đã đến lúc ngồi xuống hoặc đến nơi cần giao hàng. khổ thơ thứ năm và thứ sáu miêu tả những cuộc gặp gỡ và niềm vui trong bầu không khí đoàn kết, tương thân tương ái:

những chiếc ô tô bị bom ném đến đây để tạo thành một đội đầu bếp giữ chúng ta trên bầu trời, chia sẻ đĩa và đũa nghĩa là gia đình.

hình ảnh người lính lái xe tăng thêm vẻ đẹp khác. đó là tình yêu thương gắn bó, sự sẻ chia ngọt ngào. Khi hành quân, anh em hò reo chào hỏi nhau trong tình huống “bắt tay nhau qua mảnh kính vỡ” có một không hai. khi hạ trại, họ trò chuyện, ăn uống và nghỉ ngơi thoải mái, vô tư, nhường nhịn nhau như anh em: chung bát, chung đũa, “mắc võng”… nhưng chỉ trong chốc lát. rồi tiếp tục hành khúc: “lại đi, lại lên trời xanh…”. câu thơ bay bổng, bay bổng, thật lãng mạn, thật mộng mơ:

Xem thêm: Lý thuyết chuyển động tịnh tiến của vật rắn, chuyển động quay của vật rắn quanh một trục cố định

không kính, nên xe không có đèn, không có mui, thùng xe có vết xước, xe vẫn chạy về hướng Nam: miễn là có lòng trong xe.

khổ thơ cuối, vẫn là giọng thơ mộc mạc, gần gũi với lối nói thông thường, như văn xuôi. tuy nhiên, âm nhạc, hình ảnh và ngôn ngữ rất đẹp, rất thơ, truyền cảm, suy tư, bay bổng, sâu lắng để hoàn thành bức chân dung tuyệt vời của người lính giao thông hào sơn trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. . bốn dòng của bài thơ tạo nên hai hình ảnh tương phản ấn tượng, bất ngờ và thú vị.

Hai câu đầu đầy mất mát, khó khăn do quân giặc gây ra, do đường dài: xe không cửa, không đèn, không mui, thùng xe gãy, … cụm từ “không” là lặp đi lặp lại ba lần giống như nhân ba lần thử thách khốc liệt. hai câu thơ chia làm bốn đoạn “không kính / nên xe không đèn – không mui / cốp xe xước” như bốn khúc gập ghềnh, khúc khuỷu, đầy chông gai, bom đạn, bốn đoạn “quay đầu, ngoảnh lại”… trêu ngươi. , khiến đoàn xe tức giận.

Xe tiếp tục chạy vì phía trước đang ở phía nam: miễn là trong xe có một trái tim.

hai câu cuối có âm điệu tương phản, nhưng trôi chảy với hình ảnh nổi bật. đoàn xe đã chiến thắng, vượt qua bom đạn, hăng hái tiến lên, hướng về tiền tuyến lớn với tình cảm thiêng liêng “vì miền Nam ruột thịt”, vì sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước. đặc biệt tỏa sáng trong suốt bài thơ, đoạn thơ là hình ảnh “có một trái tim trong chuyến xe”. nên cội nguồn sức mạnh của cả đoàn xe, cội nguồn và phẩm chất anh hùng của người lính lái xe được tích tụ và cô đọng trong “trái tim” dũng cảm, kiên cường, quả cảm và nghĩa tình này. Đó có phải là trái tim con người thúc đẩy?

tình yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, đồng chí ở miền nam đau thương đã động viên, khích lệ người chiến sĩ vận tải vượt qua khó khăn gian khổ, luôn lạc quan, bình tĩnh cầm tay lái, nhìn vào đúng địa chỉ để đưa đoàn xe khẩn trương đến đích đến? ngữ điệu của câu thoại “chỉ cần bạn có trái tim trong xe” nhẹ nhàng, nhưng khả năng khắc họa hình ảnh của nhân vật và khơi gợi những suy luận triết học sâu sắc và nặng nề. ẩn sau ý nghĩa “lòng người cầm quân”, câu thơ còn muốn hướng người đọc đến một chân lý của thời đại chúng ta: sức mạnh quyết định, chiến thắng không phải là vũ khí, công cụ… mà là con người. tấm lòng, ý chí kiên cường, lòng dũng cảm, lạc quan và một niềm tin vững chắc. được cho là bài thơ hay nhất là bài sau. nó là “nghi thức”, nó là “con mắt của bài thơ”, nó chiếu sáng chủ đề, nó chiếu sáng vẻ đẹp của hình tượng nhân vật trong bài thơ.

quay trở lại phong cách của pham tien duat đã đề cập ở phần đầu, hãy đọc bài thơ về tiểu đội không có tinh cũng như một số tác phẩm tiêu biểu khác của ông – lửa và đèn; trường sơn đông, trường sơn tây; nhớ, … thật thú vị khi nhận ra giọng thơ rất trẻ, rất quân tử. bài thơ đã tạo nên một hình tượng độc đáo: những chiếc xe không kính, từ đó khắc họa nổi bật hình ảnh những người lính lái xe trường sơn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, với tư thế hiên ngang và tinh thần dũng cảm, bất chấp khó khăn. và hiểm nguy, niềm vui sôi nổi của tuổi trẻ và ý chí quyết tâm chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng miền nam, thống nhất Tổ quốc. tác giả đã đưa vào bài thơ chất liệu hiện thực sinh động của cuộc sống trên chiến trường, cùng với ngôn ngữ và giọng điệu phong phú trong lối nói mạnh mẽ, tự nhiên. hình ảnh nổi bật trong cả bài thơ: trong xe có một trái tim và một giọng văn vui tươi, hóm hỉnh và lãng mạn.

Tiếng nói ấy được sinh ra từ tuổi trẻ, từ tâm hồn phơi phới của bao thế hệ chiến sĩ Việt Nam mà chính nhà thơ đã sống và trải qua. nên không phải ngẫu nhiên mà tác giả đặt tên cho tác phẩm là bài thơ về tiểu đội xe không kính. chất thơ, chất thơ tỏa ra từ hiện thực chiến trận, từ niềm vui sống của người dân đương thời. Chất thơ ấy được sinh ra từ sự giản dị của ngôn từ, từ sự uyển chuyển của âm nhạc, từ sự sáng tạo bất ngờ của hình ảnh, từ chi tiết …, đã khắc họa đậm nét vẻ đẹp của phẩm giá con người, và cuối cùng cất cánh, hòa quyện với âm hưởng sử thi và cảm hứng lãng mạn của cả một thời kỳ văn học Việt Nam trong ba thập kỷ kháng chiến chống xâm lược, từ năm 1945 đến năm 1975.

phân tích bài thơ về tiểu đội không kính – văn mẫu 9

pham tien duat là một nhà thơ trưởng thành trong phong trào kháng chiến chống Mỹ. những sáng tác của anh lôi cuốn người đọc không phải bằng những ngôn từ trau chuốt, trau chuốt mà bằng lực, bằng hiện thực cuộc sống. bài thơ “tiểu đội xe không cửa sổ” tiêu biểu cho phong cách sáng tác độc đáo đó. hình ảnh người lính hiện lên đậm nét qua ngòi bút sắc sảo của tác phẩm.

cuộc kháng chiến tàn bạo và ác liệt của nhân dân ta nó làm cho nhân dân lâm vào cảnh khốn cùng, đất nước điêu tàn. những người lính vượt khó bảo vệ Tổ quốc. Hình ảnh những người lính cụ Hồ được miêu tả chân thực và sâu sắc trong suốt những vần thơ của Phạm Tiến Duật.

tác giả mở đầu bài thơ bằng một tuyên bố mạnh mẽ:

không có kính không phải vì xe không có bơm kính, bơm rung kính, kính vỡ

chỉ với hai dòng kẻ như hai nét vẽ, tác giả đã vẽ nên một bức tranh hiện thực tàn khốc của chiến tranh. tác giả đưa ra một lý do rõ ràng và thuyết phục tại sao xe không có kính. hai chữ “không” được đặt trong một câu thơ đã khẳng định điều đó là một sự thật hiển nhiên, bao nhiêu hận thù giặc Mỹ ác ôn đã trút xuống mảnh đất đau thương này. lời thơ của tác giả gần gũi với lời văn của mỗi người nên dễ hiểu, dễ thấm.

Ở câu thơ thứ ba xuất hiện hình ảnh người lính công binh với dáng vẻ hào hoa, oai phong lẫm liệt:

cẩn thận trong cabin, chúng ta ngồi xuống, nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng

Với biện pháp đảo trật tự cú pháp, tính từ “quý ông” được đặt ở đầu câu đã nhấn mạnh tư thế lái xe kiêu hãnh, có thể điều khiển chiến trường mà không hề nao núng. đại từ “ta” vừa là chính mình, vừa là đại diện cho nhiều người, cho một đất nước luôn sẵn sàng đánh giặc. đây là một thủ pháp nghệ thuật đầy ẩn ý của chính tác giả. trước mắt người chiến sĩ là đất trời bao la, rộng lớn, anh ta phải tiến lên để chiến thắng. từ “canh” trong câu thơ sau được lặp lại 3 lần để khẳng định sự kiên trì, bền bỉ, tập trung cao độ trong chiến đấu.

Tôi thấy gió lùa vào, tôi dụi mắt, tôi thấy con đường đi thẳng vào lòng mình, tôi thấy những vì sao trên trời và bất chợt những cánh chim như ùa vào trong cabin

hai câu thơ này đã có một sự chuyển đổi tinh tế và nhạy cảm. từ “thấy” không còn giữ nghĩa gốc mà đã chuyển sang nghĩa khác. Lúc này, tôi không chỉ nhìn thấy đường, nhìn thấy trời đất, mà còn thấy “gió lùa vào dụi mắt cay cay”, “tôi thấy đường đi thẳng vào tim”. có lẽ trong lòng người lính có ý chí quyết tâm rất lớn nên cảm nhận được sự tinh tế, nhận ra những hiểm nguy trước mắt, vẫn cố gắng kiên cường vượt qua. một không gian bao la, rộng lớn như bao trùm phía trước.

hiện thực chiến tranh không còn khốc liệt đan xen với sự hóm hỉnh, vui tươi của những người chiến sĩ cách mạng. bạn đã nghĩ đến một không gian lãng mạn và tươi vui giữa khung cảnh bom đạn khốc liệt. những vì sao trên trời và những cánh chim bay bên ngoài khiến người chiến sĩ cách mạng tưởng rằng mình đang “rơi”, “lao” về phía căn nhà gỗ.

Trong đoạn thơ sau, tác giả miêu tả sự khốc liệt của chiến tranh:

không có kính, có, có bột và keo xịt tóc màu trắng giống như những ông già không cần gội đầu, họ châm một điếu thuốc, nhìn nhau nở nụ cười trên môi, ha ha, không có kính, vâng, áo mưa ướt sũng, trời mưa như trút nước như thể bên ngoài chưa giặt, chạy xe trăm cây số mưa tạnh ráo, gió lùa nhanh khô.

Hiện thực chiến tranh khốc liệt và tàn khốc được vẽ nên qua ngòi bút chân thực của tác giả. với ngôn ngữ giản dị, gần gũi với đời sống con người. một từ “vâng” làm cho câu thơ nhẹ nhàng, không chút ngập ngừng, khúc mắc. một tiếng “vâng” đã làm sáng lên tinh thần của những người lính. sự khốc liệt của chiến tranh và thiên nhiên không hề suy tàn, ý chí quật cường của các chiến sĩ cách mạng.

từ “không cần” càng khẳng định thêm thái độ dũng cảm, vô tư của người lính năm xưa. nhưng chính điều đó đã tạo nên phong cách “ngổ ngáo”, phong thái ngạo nghễ cần phải có trong một cuộc kháng chiến ác liệt như thế này.

và trong cuộc chiến đầy cam go, thử thách như thế này, tình cảm anh chị em luôn được trân trọng và khẳng định:

ô tô rơi do bom. Tôi đến đây để gặp gỡ những người bạn trên đường để bắt tay nhau qua những mảnh kính vỡ.

hình ảnh thơ thật đẹp, thật đáng khâm phục. vượt qua bao bom đạn, thử thách ô tô từ hàng trăm ngả đường để đến một điểm hẹn, để kể cho chúng ta nghe những trận chiến đã vượt qua. hình ảnh “bắt tay qua mảnh kính vỡ” thực sự khiến người đọc rơi nước mắt vì quá đẹp và cao cả.

Tình cảm thân thiết, gắn bó giữa những người đồng đội dường như khiến cuộc chiến bớt tàn khốc, nghiệt ngã. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, tình yêu luôn có thể chinh phục tất cả. đó là sức mạnh tạo nên sự đoàn kết, niềm tin chiến thắng.

Có lẽ câu thơ cuối cùng là câu thơ hay và ấn tượng nhất:

không kính, không đèn, không mui, thùng xe có vết xước. xe vẫn chạy vì mặt tiền hướng nam chỉ cần một trái tim trên xe.

khẳng định một lần nữa sự tàn khốc của chiến tranh, nhưng trên hết vẫn tiếp tục là ý chí, niềm tin và sự nỗ lực vì miền nam phía trước. hình ảnh “trái tim” ở cuối bài thơ như mở ra một không gian nghệ thuật thơ mộng, trữ tình.

Bài thơ Tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật đã khắc họa thành công hình tượng người chiến sĩ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vừa kiên cường vừa hào hoa. là hình ảnh đẹp xuyên suốt bài thơ.

Phân tích bài thơ Về tiểu đội không kính – văn mẫu 10

Nhà thơ Phạm Tiên Du (1941-2007) là một nhà thơ nổi tiếng với nhiều tác phẩm tiêu biểu viết về thời kỳ chiến tranh Việt Nam. thơ ông mang phong cách tự do, phóng khoáng, vui tươi, suy tư. bài thơ về tiểu đội xe không kính ”là tác phẩm tiêu biểu của anh viết năm 1969, anh đoạt giải nhất cuộc thi văn nghệ năm 1969 – 1970. Bài thơ thể hiện rõ sự tinh quái, nhưng cũng là niềm tự hào, bất chấp cái chết của những người lính. trong thời kỳ kháng chiến.

Bài thơ mở đầu bằng câu thơ với hình ảnh rất chân thực và độc đáo:

không có kính không phải do xe không có bơm rung, kính bị vỡ.

hai câu thơ với những nét chấm phá nghệ thuật, giúp ta dễ dàng hình dung ra hiện thực tàn khốc của chiến tranh. xe quân sự vốn dĩ có kính, trang bị đầy đủ, nhưng do “trúng bom” nên “bể kính”. sự tàn khốc của mưa bom, bão đạn khiến những chiếc xe cong vênh, trở nên khác thường, lạ lẫm và độc đáo. có thể thấy tác giả đã miêu tả một cách vô cùng chân thực mà sâu sắc. xe không có cửa sổ nên mất tích, nhưng những người lính trên xe không hề bi quan mà vô cùng lạc quan và tinh nghịch:

ngồi trong cabin, ta ngồi nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng, thấy gió lùa vào là dụi mắt chua xót, thấy con đường đi thẳng vào tim, thấy những vì sao trong bầu trời và từ đột nhiên những con chim dường như lao vào cabin.

Những người lính ngồi trong buồng lái với kính chắn gió, nhìn thẳng ra thiên nhiên, bầu trời và đất liền bên ngoài. nhà thơ sử dụng các biện pháp nghệ thuật nhân hoá, so sánh, điệp ngữ với nhịp thơ nhanh, nhịp nhàng, đều đặn, giúp người đọc dễ hình dung nhịp bánh xe trên đường ra chiến trường. những hình ảnh, sự vật và cảm xúc mà những người lính nhìn thấy và trải qua đều thể hiện sự bình tĩnh, khoan dung trước hiểm nguy của bom đạn chiến tranh. chúng yên tĩnh nên có thể nhìn rõ từ gió, con đường, cánh chim … hay những vì sao. Hình ảnh “con đường dẫn thẳng đến trái tim” gợi cho chúng ta nhớ đến con đường phía trước, cũng như hiểm nguy phía trước, nhưng những người lính vẫn cố gắng kiên cường để vượt qua.

Trong những câu thơ tiếp theo, tác giả tập trung vào những gian khổ và nỗi niềm của những người lính trên xe. Dù khó khăn, vất vả nhưng họ vẫn luôn lạc quan, yêu đời:

không có kính, vâng, có bột và keo xịt tóc màu trắng như một ông già không cần gội, ông châm một điếu thuốc, họ nhìn nhau nở nụ cười trên môi, ha ha không đeo kính, vâng, áo mưa ướt sũng, mưa như ở ngoài không giặt, chạy xe trăm cây số trời tạnh mưa, suối cạn nhanh.

Có thể thấy, những người lính trên xe dù gặp khó khăn vẫn không lùi bước. đây là một cơ hội để kiểm tra ý chí của bạn. vất vả như vậy nhưng anh ấy vẫn yêu đời, vẫn có thể cười nói vui vẻ mà không lo nguy hiểm.

những người lính, những người đồng đội trên chiến trường gắn bó với nhau, cùng nhau vượt qua gian khổ nên họ coi nhau như ruột thịt. Dù xuất thân từ những lĩnh vực khác nhau, sinh ra trong những hoàn cảnh khác nhau nhưng họ đều có chung lý tưởng sống và chiến đấu vì Tổ quốc:

ô tô bị bom rơi tôi đến đây gặp bạn suốt đường gặp bạn dọc đường bắt tay nhau qua mảnh kính vỡ. hoàng đế bếp núc mình trời chung bát đũa, nghĩa là gia đình bế tắc, đi thì đi, trời lại xanh.

Niềm lạc quan và niềm tin vào ngày mai chiến thắng của những người lính dường như khiến “bầu trời xanh hơn”. câu thơ “bắt tay nhau qua khung cửa sổ vỡ” giúp ta cảm nhận rõ sự đoàn kết, đồng lòng của những người lính đi đầu. những người lính với lòng yêu nước nồng nàn, tình đồng chí sâu nặng đã hun đúc nên ý chí chiến đấu giải phóng miền nam, thống nhất đất nước.

không kính, không đèn, không mui, thùng xe có vết xước. xe vẫn chạy vì mặt tiền hướng nam chỉ cần một trái tim trên xe.

Sự tàn khốc và đau thương của chiến tranh được nhà thơ nhắc đến trong khổ thơ cuối, qua những hình ảnh “xe không cửa, không đèn, không mui, thùng xe trầy xước”. dù ác liệt như vậy nhưng ý chí chiến đấu của các chiến sĩ vẫn luôn cháy bỏng trong lòng các chiến sĩ. trái tim là biểu tượng của lý tưởng, của cả dân tộc Việt Nam, một ngày nào đó sẽ thống nhất đất nước.

Thật vậy, “Bài thơ về tiểu đội xe không cửa ” là một tác phẩm tiêu biểu và đặc sắc về vẻ đẹp của những người lính lái xe. bài thơ để lại ấn tượng sâu sắc trong tâm trí người đọc về tình người, tình đồng chí gắn bó trong chiến tranh, cũng như lòng yêu nước nồng nàn của các chiến sĩ trong thời kỳ kháng chiến.

phân tích bài thơ về tiểu đội không kính – văn mẫu 11

con đường đến trận chiến mùa này thật đẹp. trường Sơn Đông nhớ trường Sơn Tây

những dòng sôi động, nhưng vẫn đầy nhiệt huyết, từ bài thơ của nhà thơ Phạm Tiến Duật. nhưng nói đến thơ không thể không nhắc đến tác phẩm “bài thơ về tiểu đội xe không kính” với sự gan dạ, khí phách, dũng cảm, bền bỉ của những người lính, họ là những đại diện tiêu biểu cho những người lính trượng nghĩa. Cordillera de Son trong những năm kháng chiến chống Mỹ hào hùng.

bài thơ về tiểu đội xe không kính ra đời trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta. nó phát triển với sự khốc liệt và dữ dội hơn. Ở khắp mọi nơi, thanh niên gác lại việc học, lên đường đánh giặc, xung phong ra chiến trường. Lúc bấy giờ, đường Trường Sơn là huyết mạch nối liền hậu phương với tiền tuyến nên bị bom Mỹ bắn phá ác liệt. nhưng bằng lòng dũng cảm và ý chí quyết tâm, những chiếc xe đã vượt qua mưa bom, bão đạn trên đường ra trận. Bằng ngòi bút chân thành, giọng văn mạnh mẽ, hào hùng, Phạm Tiến Duật đã mang đến cho người đọc cái nhìn toàn diện nhất về cuộc đời và cuộc chiến đấu của người lính lái xe.

ngay từ câu thơ đầu tiên, người lính đã giới thiệu về người bạn đời của mình, những chiếc xe không kính:

không có kính không phải vì xe không có kính. bom và bom rung kính vỡ

câu thơ có một cái gì đó đáng ngạc nhiên, nhưng đồng thời rất thông minh. lời bài hát tự nhiên, chân thật như lời nói hàng ngày. ba từ không đi với động từ mạnh: rung chuyển, rung chuyển giúp thể hiện sự dữ dội, tàn khốc của chiến tranh, đồng thời cũng thể hiện cái nhìn lạc quan của người lính. như một lời giải thích, về vẻ ngoài sứt mẻ và thiếu sức sống của chiếc xe.

và đằng sau những chiếc xe thiếu thốn ấy, tấm kính vỡ hiện lên chân dung của một người lính:

cẩn thận trong cabin, chúng tôi ngồi nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng

Đối mặt với thực tế gian khổ và khốc liệt của chiến tranh, người lính vẫn rất chậm rãi và đàng hoàng. họ luôn chủ động trong mọi hoàn cảnh, mọi tình huống. ánh mắt trực diện đó thể hiện tư thế tự hào, nhìn thẳng vào thực tế trận chiến mà không né tránh.

Những chiếc xe không kính đó còn tạo điều kiện cho những người lính hòa mình vào thiên nhiên. Gió thổi mạnh vào cabin làm bỏng mắt mọi người, nhưng Phạm Đức đã rất khéo léo tưởng tượng “dụi mắt chua”, làm dịu đi cái nóng như thiêu của gió núi kéo dài. không chỉ vậy, chim và sao trên trời cũng hòa vào nhịp thở của người lính. Lúc này, tiếng chim hót đã đẩy lùi mọi khó khăn, nguy hiểm, nhường chỗ cho họ cảm nhận mọi vẻ đẹp của thiên nhiên. có thể nói với vẻ điềm đạm, lạc quan, tư thế thoải mái, người lính đã chiến thắng mọi bom đạn của kẻ thù.

Hai khổ thơ sau tiếp tục khắc họa vẻ đẹp của người lính trước những khó khăn, gian khổ là cát bụi của núi rừng:

không đeo kính, có bụi

mưa sẽ tạnh và gió sẽ khô nhanh chóng ”

Khổ thơ đã sử dụng biện pháp kết cấu lặp lại kết hợp với bút pháp ngụ ngôn “có” “chưa” khiến toàn bộ khổ thơ trở thành sự thách thức trước những thử thách của thiên nhiên. chúng là những câu thơ miêu tả rất chân thực về những khó khăn mà người lính lái xe phải trải qua: đối mặt với mưa rào, đối mặt với sương khói khi trời nắng gắt. nhưng đối với họ những thử thách đó chỉ khiến họ thêm phản kháng, “không cần thay” “không cần rửa” để lái xe hàng trăm km, phóng nhanh về phía trước. kết hợp với giọng thơ đầy thương tiếc đã thể hiện thái độ bất chấp khó khăn, coi người là nguy hiểm của người lính.

Ngoài vẻ đẹp của sự kiên cường và dũng cảm, họ còn thể hiện tình bạn thân thiết. Sau những chặng đường đầy mệt mỏi và nguy hiểm, qua những mảnh kính vỡ, họ đã bắt tay nhau, truyền cho nhau sức mạnh và niềm tin vào tương lai của đất nước. đối với họ đó không chỉ là sự đồng hành đơn thuần mà còn là tình yêu thương gia đình: “chia sẻ món ăn là gia đình”. rồi sau bữa cơm nóng hổi đó họ chia tay nhau tiếp tục chiến đấu để bảo vệ đất nước.

Khổ thơ cuối tái hiện hình ảnh những chiếc xe không kính, những chiếc xe không kính, không đèn, không nóc, vô cùng thiếu thốn, biến dạng vì bom đạn kẻ thù. nhưng đó không phải là điều mà my pham doat mong muốn, trái ngược với việc không có gì là một thứ gì đó rất cao quý và thiêng liêng:

miễn là có một trái tim trong xe

trái tim là một từ ẩn dụ độc đáo, tượng trưng cho những người lính lái xe ô tô. Chỉ cần có trái tim nhiệt huyết, tinh thần quả cảm và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam thống nhất đất nước thì những chiếc xe ấy sẽ có thể ngày đêm vượt sông, vượt qua mọi hiểm nguy, tiếp tục đi lên. Bom đạn của kẻ thù chỉ có thể phá hủy những chiếc xe chứ không thể làm nổi lòng nhiệt thành yêu nước của các chiến sĩ cách mạng.

Bằng những ngôn từ giản dị, đậm đà và lời thơ táo bạo, dí dỏm, dí dỏm, Phạm Tiểng đã mang đến cho người đọc một bức chân dung đẹp đẽ về người lính. họ có cả sự khéo léo của tuổi trẻ và sự ngoan cường, gan dạ và dũng cảm. vẻ đẹp của những người lính cũng như một bài học nhắc nhở chúng ta về tinh thần trách nhiệm đối với đất nước.

phân tích bài thơ về tiểu đội không kính – văn mẫu 12

pham tien duat là một nhà thơ trẻ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống các nước thống nhất cứu nước, cùng thời với các khuynh hướng, nguyên khoa, lê anh tra … với sự sôi nổi, trẻ trung. , giọng văn hồn nhiên, tinh nghịch mà sâu lắng, thơ lục bát chủ yếu tập trung thể hiện hình tượng thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thông qua hình tượng người lính, thanh niên xung phong. “bài thơ tiểu đội xe không kính” là một bài thơ hay, rất tiêu biểu cho những đặc điểm và phong cách nghệ thuật đó của nhà thơ. tác phẩm được đưa vào chùm thơ đoạt giải nhất cuộc thi thơ báo văn nghệ năm 1969, sau đó được đưa vào tập thơ “vầng trăng lửa”.

Bài thơ thể hiện thành công hình ảnh những chiếc ô tô không có cửa sổ và những người lính lái xe trên những chiến trường được tô vẽ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Qua đó, nhà thơ đã phản ánh hiện thực khốc liệt của chiến tranh và tinh thần lạc quan, dũng cảm, tư thế hiên ngang, bất khuất, ý chí chiến đấu ngoan cường của các chiến sĩ trong công cuộc giải phóng miền nam, thống nhất đất nước. >

đầu tiên, điểm tạo nên ấn tượng đầu tiên khác biệt và độc đáo đối với độc giả qua tác phẩm chính là cách đặt tựa đề: “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. tiêu đề khá dài, có vẻ thừa chỗ nhưng chính điểm đó lại tạo nên sự kỳ dị, gây được sự chú ý của người đọc. tác giả đã thêm hai chữ “bài thơ” vào nhan đề tác phẩm đã thể hiện chất thơ trong bài thơ, đồng thời thể hiện nhãn quan lãng mạn của tác giả trước hiện thực khốc liệt của cuộc chiến trên chiến xa không kính. bom rơi, đạn lạc. Và với nhan đề bài thơ như thế này, Phạm Tiến Duật cũng muốn nhấn mạnh rằng, những chiếc xe không cửa sổ trong khói lửa chiến tranh chỉ tồn tại trên chiến trường miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. “. Sau đó, nhà thơ đã làm nổi bật sự tàn khốc của chiến tranh và tinh thần dũng cảm, quả cảm, sôi nổi, trẻ trung của những người lính lái xe ô tô không kính vào chiến trường. Chính vì vậy ngay nhan đề bài thơ đã gợi chủ đề, tạo nên giọng điệu và sắc thái thẩm mĩ riêng cho cả bài thơ: hóm hỉnh, vui tươi, tinh nghịch, rất quân tử.

Mở đầu bài thơ là lời giới thiệu về hình ảnh những chiếc xe không kính tiếp tục ra chiến trường. tác giả chỉ ra nguyên nhân của những chiếc ô tô không có cửa sổ bằng một câu thơ văn xuôi rất tự nhiên và rất hiện thực:

không có kính không phải vì xe không có kính. bom và bom rung kính vỡ

thực ra, trước khi có tiếng nói, đã có rất nhiều phương tiện giao thông được các nghệ sĩ đưa vào thơ của họ. đó là hình ảnh con tàu đi về hướng Tây Bắc trong bài hát “con tàu” của chế lan viên hay là con tàu ra khơi đánh cá của ngư dân ngư trường trong bài thơ “quê hương” của te hanh. , “đoàn thuyền đánh cá” chạy trốn… nhưng tất cả những phương tiện, con thuyền ấy đi vào bài thơ đều được lãng mạn hóa, mang một ý nghĩa tượng trưng nhất định. và những chiếc xe không kính của my pham tien được lấy từ những hình ảnh “sống” thật, khỏa thân. từ “không” được lặp lại ba lần trong một dòng thơ kết hợp với các động từ mạnh “nhảy”, “rung” vừa có ý nghĩa giải thích nguyên nhân vì sao xe không có kính, vừa có ý nghĩa nhấn mạnh sự tàn phá xấu xa và sự tàn phá của chiến tranh. Chưa dừng lại ở đó, trong chiến tranh bom đạn, những chiếc xe không những không bị nát mà còn biến dạng trơ ​​trụi vô cùng:

không kính, không đèn, không mui xe, cốp xe bị xước

Từ “không …” kết hợp với danh sách hình ảnh các bộ phận xe bị thiếu “kính, mái, đèn, thùng xe” đã cho thấy một cái nhìn rất chân thực về cuộc chiến. đó là sự tàn phá vô cùng tàn khốc của bom rơi và đạn lạc trên chiến trường xa xôi.

Chủ nhân của những chiếc xe không kính đó là những người lính lái xe bền bỉ. Phạm tiến sử dụng biện pháp “xà beng”, những chiếc xe không kính càng trần trụi, dữ tợn bao nhiêu thì phẩm chất của người lính lái xe càng nổi bật bấy nhiêu. qua đó tác giả muốn thể hiện cho người đọc thấy: lòng dũng cảm, sự dũng cảm, bất chấp mọi hiểm nguy, sự thiếu lãnh đạo của những người lính trên chiến trường.

Dù những chiếc xe bị phá hủy và hoang tàn nhưng người lính vẫn rất tự hào và hãnh diện khi mang chiếc xe lăn ra chiến trường:

ngồi trong cabin, ta ngồi nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng, ta thấy gió lùa vào, ta dụi mắt chua xót, ta thấy con đường đi thẳng vào tim, ta thấy các ngôi sao trên bầu trời, và từ đột nhiên những cánh chim như rơi xuống, như lao vào cabin.

các câu thơ được viết bởi kinh nghiệm nội tại, vì vậy chúng rất thực tế. Không có kính, những người lính đã phải đối mặt với rất nhiều nguy hiểm và khó khăn. nào là “gió lùa vào dụi mắt cay cay”, là sao trên trời, là cánh chim “như rơi, lao thẳng vào mặt, thân và cabin của người lính lái xe”. động từ mạnh “chạy thẳng, đột ngột, như sa, như vội” thể hiện cảm xúc đầy căng thẳng, thử thách và nguy hiểm của người lính. tuy nhiên, đối mặt với tình huống đó, người lính không hề run sợ, hoảng sợ, né tránh mà ngược lại, anh ta rất đàng hoàng, tự hào và thoải mái: “Trong cabin bình tĩnh, ta ngồi / nhìn đất, nhìn trời. , mong đợi “. nghệ thuật đảo ngữ đẩy động từ ‘ung dung’ đã thể hiện tư thế rất tự tin, điềm tĩnh và có phần táo tợn của người lính. các từ ‘see’ và ‘see’ được lặp lại cho mỗi người lính. thấy toàn cảnh thiên nhiên như bỗng nhỏ lại, được vẽ lên trong mắt người lính, điều đó không chỉ thể hiện sự tập trung cao độ của tinh thần trách nhiệm cao cả mà còn thể hiện tâm hồn lãng mạn, hào hoa, rộng mở để đón nhận vẻ đẹp thiên nhiên của người lính qua tấm kính vỡ. cửa sổ.

Trên đường ra tiền tuyến, người lính ấy cũng phải chịu nhiều gian khổ từ ngoại cảnh như gió, mưa, bụi:

“không có kính, vâng, bụi và bụi bắn tung tóe trên mái tóc bạc trắng như một ông già” “không đeo kính, vâng, áo khoác ướt như cũ”

nhưng với tinh thần dũng cảm, mạnh mẽ, bất chấp, người lính đã vượt qua tất cả:

“không cần tắm rửa, châm một điếu thuốc rồi nhìn nhau cười tươi, ha ha” “không cần thay đồ, chạy xe trăm km nữa, mưa sẽ tạnh, suối mau khô”

cụm từ “không đeo kính, cũng …”; “không cần …” là một cách nói táo bạo. một cách thô bạo, đời thường nhưng cứng rắn, mạnh mẽ, họ đã biến khó khăn thành điều thú vị. người đọc như nghe thấy tiếng cười của bộ đội gột rửa mọi khó khăn của người lính. những chi tiết hình ảnh: “điếu thuốc phiện”, “cười ha hả” hay “lái thêm trăm cây… khô nhanh” đã thể hiện tinh thần vượt qua mọi khó khăn, gian khổ của anh. cảm thấy những khó khăn đó không thể dập tắt sức trẻ, tinh thần lạc quan và lòng dũng cảm của người lính.

những người lính lái xe ô tô không chỉ hiện lên như những anh chàng gan dạ, dũng cảm, bất khuất, sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, nguy hiểm mà còn là những người lính trẻ đầy đồng cảm. đồng chí, đồng chí Có thể nói, khó khăn, thử thách không chỉ làm cho những người lính dũng cảm, ý chí, kiên cường hơn mà còn giúp cho tình bạn, tình đồng đội thêm gắn bó, đoàn kết:

ô tô bị bỏ rơi trong bom. Tôi đến đây để gặp gỡ bạn bè giữa đường để bắt tay nhau qua mảnh kính vỡ.

Trên con đường từ sau ra trước, có rất nhiều ô tô không kính lao vào hỗn chiến. họ gặp nhau và bắt tay nhau qua tấm kính vỡ. nắm tay, nắm tay nhau là một hành động đẹp, chứa chan tình cảm đồng đội. Hơi ấm của tình yêu thương, sự động viên và cảm thông được truyền cho nhau trong lúc nguy nan, khó khăn và nghịch cảnh. họ được đối xử như anh em ruột thịt trong gia đình:

<3

Chúng tôi bắt gặp định nghĩa của riêng ptd về gia đình: về mối quan hệ khăng khít của những người lính trong chiến tranh, đó là: chia sẻ món ăn, chung bếp lửa, chia sẻ hoàn cảnh khó khăn, sẻ chia con cái, tất cả những điều đó đã khiến mọi người tuy lạ mà quen. gắn bó mật thiết với nhau, đoàn kết vì lý tưởng cách mạng cao đẹp. chính tình cảm của những nam nữ đồng hành đã thôi thúc những người lính tiếp tục tiến về phía trước: “đi nữa, đi nữa lên trời xanh”. thông điệp “lại đi” nhằm nhấn mạnh những đoàn xe không kính đang không ngừng tiến về phía trước. hình ảnh “trời xanh hơn” là hình ảnh ẩn dụ về tâm hồn lạc quan, yêu đời, tràn đầy hy vọng của người chiến sĩ vào tương lai phía trước của cuộc đời và cách mạng.

những bài thơ được viết với giọng điệu sôi nổi, đậm đà của những người lính thời chống Mỹ. họ hăng hái lên đường nhập ngũ với mục tiêu cao cả là tiêu diệt kẻ thù, bảo vệ quê hương đất nước. mọi khó khăn, gian khổ, mọi nguy hiểm, chông gai, các chiến sĩ đã chia sẻ, động viên, giúp đỡ nhau vượt qua thử thách. người đọc dường như cảm thấy tất cả những khó khăn ấy đều trở nên nhẹ tựa lông hồng trước tiếng cười lạc quan của người lính già.

Cuối cùng, động lực mạnh mẽ và sâu sắc tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn, bất chấp mọi hiểm nguy, mọi sự tàn phá, hủy diệt của kẻ thù trong người lính đó là ý chí chiến đấu giải phóng miền nam, thống nhất đất nước.

>

Ô tô tiếp tục chạy vì phía trước là phía nam, miễn là trong xe có một trái tim.

bom, đạn có thể khiến chiếc xe trơ trọi nhưng không thể đè bẹp ý chí chiến đấu của những người lính lái xe. hình ảnh “tấm lòng” vừa là hình ảnh ẩn dụ, vừa là hình ảnh ẩn dụ cho sức mạnh, lòng dũng cảm, tinh thần lạc quan, tinh thần yêu nước mãnh liệt của người lính. “trái tim” của nó là một động cơ hoàn hảo, có thể thay thế tất cả những “không có” của những chiếc xe hư hỏng và trần trụi trước đây. tất cả vì một mục đích cao cả mà người lính lái xe đã đặt ra “vì miền nam ruột thịt”. hình tượng anh bộ đội lái xe trong bài thơ là tượng đài sáng ngời, là biểu tượng cao đẹp cho một thế hệ thanh niên Việt Nam thời đại kháng chiến giữ nước theo tinh thần:

đốn núi cứu nước nhưng phơi bày tấm lòng hướng về tương lai.

Điều này thể hiện lòng yêu nước sâu sắc và tinh thần trách nhiệm công dân cao của các chiến sĩ khi đất nước lâm nguy.

tóm lại, với giọng thơ trẻ trung, tinh nghịch, kiêu sa, táo tợn; kết hợp với ngôn ngữ thơ giản dị, sinh động, giàu hình ảnh, giàu nhịp điệu âm nhạc… truyện tiếu lâm đã khắc họa thành công những chiếc xe không kính và làm nổi bật hình tượng người lính lái xe trong trường ca. và kiêu hãnh, lạc quan, yêu đời và giàu ý chí chiến đấu, tinh thần yêu nước mạnh mẽ, sắt đá. Dù chiến tranh đã lùi vào dĩ vãng, lịch sử dân tộc bước sang trang mới: tự do – độc lập, nhưng hình ảnh những chiếc ô tô bị bom đạn tàn phá và những người lính lái ô tô trường kỳ chống lại chúng ta. họ vẫn sống trong thời gian và trong trái tim. của quốc gia.

phân tích bài thơ về tiểu đội không kính – văn mẫu 13

pham tien duat là một nhà thơ trẻ và lớn lên “trong màu áo lính tráng” giữa những ngày ác liệt nhất của cuộc chiến tranh nhân dân chống lại các nước thống nhất.

tiếng đàn thơ lục bát được hình thành và lớn mạnh cùng với những vần thơ “trường sơn đông – trường sơn tây, ngọn lửa và ngọn đèn, gửi anh thanh niên xung phong, nhớ…” đã góp phần trẻ hóa thơ ca Việt Nam. – đàn ông Mỹ. bài thơ “tiểu đội xe không kính” được trích từ tập thơ “vầng trăng – vầng lửa” của tác giả. trong bài thơ, tác giả đã xây dựng hình ảnh độc đáo “những chiếc xe không kính” vẫn hiên ngang trên đường ra trận do chiến trường miền nam chi viện.

Mở đầu bài thơ, tác giả giải thích lý do tại sao tất cả các xe trong tiểu đội đều “không có kính”, do bom đạn giặc Mỹ làm “kính vỡ tan tành”. chỉ một chi tiết nhỏ “không có kính không phải vì xe không có kính – bom rơi, bom rung, kính vỡ” tác giả đã khiến người đọc hiểu được sự khốc liệt, tàn khốc của cuộc chiến tranh do đế quốc Mỹ gây ra. . Những chiếc xe này đã tô đậm hình ảnh những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn trong những năm đánh Mỹ. uu. để cứu đất nước.

tuy nhiên, những người lính trên “những chiếc xe không kính” vẫn “thoải mái trong buồng lái nơi chúng tôi ngồi / nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”.

phong thái ngạo nghễ và “dáng vẻ” của anh khi điều khiển xe như bất chấp, bất chấp mọi nguy hiểm đang chờ đợi phía trước mặc cho “bụi lấm tấm tóc trắng như một ông già”, mặc cho “bên ngoài mưa như trút nước. “. họ vẫn “nhìn nhau với nụ cười trên môi”, “châm một điếu thuốc” hoặc “bắt tay nhau qua mảnh kính vỡ”.

Những hình ảnh trong những câu thơ trên đã thể hiện rõ sự gan dạ, dũng cảm, bất chấp mọi nguy hiểm của những người lính lái xe, lái những chiếc xe không kính phía trước với niềm tin, niềm vui của những người lính trẻ.

Gọng kính bị vỡ, không có gì ngăn cản được gió lùa vào đập vào mắt. tuy nhiên, tác giả đã viết: “xem gió xoa mắt cay”.

Xem Thêm : Mẫu quyết định miễn nhiệm kế toán trưởng

“xoa” là một cử chỉ vuốt ve nhẹ nhàng. bằng cách diễn đạt của câu thơ, ở đây, gió không làm đau hay bỏng mắt người lái xe, mà ngược lại, gió còn mơn man nhẹ vào đôi mắt “cay xè”. và, con đường phía trước: con đường chiến đấu trở nên gần hơn đang chạy ngược lại “nhìn thấy con đường dẫn thẳng đến trái tim”. vì không có kính chắn gió nên người lái có cảm giác và ấn tượng là “đường đi thẳng vào tim”. con đường hoàng tráng trước mặt đây cũng chính là con đường mà nhà thơ đề ra trong con đường lí tưởng, con đường cách mạng, con đường trong trái tim người chiến sĩ. chính con đường ấy đã tiếp thêm sức mạnh, niềm tin cho những người lính, bất chấp bom đạn của kẻ thù để tiến lên: “thấy sao trên trời bỗng chốc cánh chim, như rơi vào khoang tàu”. người lái xe vẫn vui với “những vì sao” và “cánh chim”. những vì sao trên trời và những cánh chim ngày đêm như những người bạn đồng hành cùng người lính lái xe. ngày đêm, thiên nhiên, đất trời luôn ở bên cạnh người lính lái xe trên con đường dài ra trận. Với nghệ thuật nhân hoá tài tình, nhà thơ đã biến những khó khăn, trở ngại của việc lái xe không cửa sổ trở nên gần gũi, thân thiết hơn. giọng điệu thơ đôi khi rất ngang tàng, tự nhiên, bất chấp khó khăn được thể hiện rõ qua cấu trúc lặp lại “cũng…”, “chẳng phải rửa”, “chẳng phải thay”, “lái. một trăm km ”. … “dường như những gian khổ, hiểm nguy của chiến tranh không ảnh hưởng đến tinh thần của họ, ngược lại, những người lính lái chiếc xe như một nhịp tim để thử thách sức mạnh và ý chí của họ – người lính trẻ”.

những người lái xe là những anh chàng trẻ trung, sôi nổi, vui vẻ và lạc quan. họ “nhìn nhau”, “bắt tay nhau”, và trên đường ra trận, “bếp hoàng gia giữ mình trong bầu trời – chung đĩa, chung đũa nghĩa là gia đình”, và cứ thế “võng mắc lối đi”. , trước mắt anh dòng xe lại di chuyển, chúng tôi cứ tiếp tục đi, “trời thêm xanh”, con đường phía trước không gì cản nổi.

Điều gì đã khiến họ mạnh mẽ coi thường khó khăn bất chấp khó khăn như vậy? đó là ý chí chiến đấu giải phóng miền nam, lòng yêu nước nồng nàn của tuổi trẻ khi đánh giặc giữ nước ta. để cứu đất nước.

những chiếc ô tô bị bom đạn Mỹ làm biến dạng, trơ trọi “không kính hay đèn, không mui, thùng xe trầy xước”. nhưng điều kỳ lạ là những chiếc xe naked vẫn hoạt động, họ vẫn đi trước. một lần nữa tác giả lý giải một cách bất ngờ và hết sức chí lý: “chừng nào còn có trái tim trên xe”, trái tim của người chiến sĩ cách mạng, trái tim của quả cảm.

với những nét chữ tự nhiên như lời nói bình thường, giọng thơ gần gũi, vui tươi, hóm hỉnh, bài thơ đã làm nổi bật hình tượng người lính lái xe trên đường trường sơn: dũng cảm, hào hoa, hăng hái, vui tươi, lạc quan, yêu đời bất chấp tất cả. những khó khăn, nguy hiểm khi ra trận vì miền nam thân yêu. Họ luôn phải đối mặt với những khó khăn và thử thách, nhưng họ vẫn cười, họ nói đùa, họ hồn nhiên, tin tưởng. đó chính là nét độc đáo của bài thơ, cũng như ngôn ngữ và giọng điệu của thơ lục bát.

Ngày nay đất nước hòa bình sau hơn 30 năm giải phóng miền nam. con đường trượng phu đã đi vào lịch sử, đọc lại bài thơ này chúng ta càng cảm thấy tự hào và khâm phục biết bao nghĩa sĩ năm xưa đã cùng đội quân trượng phu góp phần làm nên chiến thắng vẻ vang của dân tộc trượng phu.

phân tích bài thơ về tiểu đội không kính – văn mẫu 14

Những năm tháng chống Mỹ hào hùng của dân tộc đã để lại nhiều kỷ niệm, dấu ấn không thể phai mờ. hình ảnh các chú bộ đội thanh niên xung phong là một trong những hình ảnh đẹp, lãng mạn và hào hùng của cuộc kháng chiến. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một trong những ví dụ điển hình cho tính cách tinh quái cũng như tinh thần bất khuất, anh hùng của người chiến sĩ.

với phong cách thơ phóng khoáng, “bài thơ về đoàn xe không cửa” là một bài thơ độc đáo, tiêu biểu cho phong cách sư phạm tiến bộ. đây cũng là một trong những chùm thơ đoạt giải nhất cuộc thi văn nghệ 1969-1970, mở đầu bài thơ bằng một hình ảnh rất cụ thể, chân thực và độc đáo:

không có kính không phải vì xe không có kính. bom và bom rung kính vỡ

Chỉ với hai dòng là hai dấu câu, người đọc có thể hình dung ra hình ảnh khốc liệt và tàn khốc của chiến tranh. ô tô đã có kính, đã có kính, nhưng vì “bom rơi”, rồi “kính vỡ”. chiến tranh với mưa bom bão đạn đã phá hủy những chiếc xe làm chúng biến dạng, biến dạng khiến chúng trở nên khác thường. lạ và độc đáo là những tính từ miêu tả chính xác những chiếc xe như vậy. và bạn có thể thấy rằng lời giải thích rất chân thực, đơn giản nhưng chứa đựng một thực tế sâu sắc.

không có kính thì có vẻ thiếu, có vẻ cứng rắn, nhưng ở đây những người lính lái xe không hề bi quan. họ biến hình ảnh chiếc xe không kính dị thường thành một thứ thông thường và biến những người túng thiếu, khó khăn trở nên thú vị. chính vì vậy mà độc giả thấy được nét tinh nghịch và lạc quan của người lính ở đây:

cẩn thận trong cabin, chúng ta ngồi xuống, nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng

Hai từ “ung dung” được đảo ở đầu câu cho thấy tư thế kiêu hãnh của người chiến sĩ, có thể làm chủ tay lái, chỉ huy con đường phía trước của người chiến sĩ. không chỉ vậy, đại từ “ta” vừa là động cơ, vừa là đại diện cho nhiều người, cho một đất nước sẵn sàng chiến đấu giành lại độc lập, tự do và hòa bình. Với thái độ ấy, trời đất còn bao la phía trước, khó khăn gian khổ ập đến, người chiến sĩ vẫn vững tin tiến lên, quân và dân ta vẫn hùng dũng tiến lên.

Nhìn đất nhìn trời, anh bộ đội cũng lái xe: anh thấy gió lùa vào, anh dụi đôi mắt cay đắng, anh thấy con đường đi thẳng vào lòng anh, anh nhìn thấy những vì sao. trên bầu trời và đột nhiên những con chim dường như lao vào cabin

Thật vô lý nhưng rất hợp lý, vì xe không có kính nên tất cả các cảnh quay đều rất tự nhiên và chân thật. ngay cả gió cũng có thể “nhìn thấy”, và các ngôi sao và cánh chim cũng “như rơi, lao vào phòng”. từ “thấy” không chỉ là một cảnh tượng, mà còn là một cảm giác và một cảm xúc. “Nhìn thấy con đường đi thẳng đến trái tim.” có lẽ trong lòng người lính có ý chí quyết tâm rất lớn nên cảm nhận được sự tinh tế, nhận ra những hiểm nguy trước mắt, vẫn cố gắng kiên cường vượt qua. một không gian bao la, rộng lớn như bao trùm phía trước.

Nếu câu thơ trước nói lên những hình ảnh đẹp đẽ thì câu thơ sau nói lên những gian khổ và niềm tự hào của người lính lái xe tải. tuy nhiên, trong bất cứ hoàn cảnh nào, bạn vẫn luôn nở nụ cười lạc quan, hóm hỉnh, đậm chất lính:

không có kính, có bột và keo xịt tóc trắng như người già không cần gội đầu, châm một điếu thuốc, trên mặt nhìn nhau cười ha ha

nếu không có kính thì sẽ bị ướt, ở ngoài trời mưa rơi như trút nước, không cần rửa, chạy xe trăm km thì mưa sẽ tạnh và gió sẽ khô nhanh chóng

>gió bụi của thực tại và cả những khó khăn, thử thách mà những người lính đi đầu đã phải vượt qua để ra mặt trận. qua con đường đầy gió bụi, mái tóc xanh của lũ trẻ đã có một sự thay đổi đáng sợ: “bụi rắc tóc bạc trắng như một ông già”. nhưng họ vẫn rất lạc quan, yêu đời và hóm hỉnh: “nhìn nhau cười tươi”.

Khi trời nắng, có bụi. trời mưa thì ướt “y như rằng ở ngoài”. “xối xả” trực diện vào người do cabin không còn kính chắn gió. Vì vậy, trong suốt cuộc hành trình dài, người lính đã phải trải qua đủ thứ khó khăn: gió, bụi, mưa. Dù vượt qua khó khăn nhưng người lính vẫn tiếp tục hiên ngang, lạc quan: “Không cần tắm rửa, đi bộ trăm cây số nữa / Mưa tạnh dòng nước mau khô”. từ “bất cần” đã thể hiện sự “ngô nghê”, bất cẩn của người lính già. gió, bụi chỉ là chuyện vặt vãnh nên bạn không quan tâm. dù thiên nhiên có khắc nghiệt, chiến tranh tàn khốc vẫn không dao động, ý chí quật cường của người chiến sĩ cách mạng

và trong cuộc chiến gian khổ, thử thách ấy, tình cảm đồng chí, đồng đội ngày càng khăng khít:

ô tô rơi do bom. Tôi đến đây để lập nhóm gặp gỡ bạn bè trên đường để bắt tay nhau qua cửa sổ vỡ

Trải qua bao bom đạn, từ muôn phương, những chiếc xe ô tô đã đến một điểm hẹn, để kể lại những chặng đường mà chúng tôi đã thực hiện. hình ảnh “bắt tay qua mảnh kính vỡ” đã thể hiện tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái của những người lái xe. Đó cũng là tinh thần của tất cả mọi người chúng ta, cùng nhau vượt qua nghịch cảnh để hướng tới thành công.

Những tình cảm đó đã trở thành sức mạnh, giúp những người lính mạnh mẽ và lạc quan hơn. do đó, chiến tranh cũng bớt thảm khốc, bớt ảm đạm hơn.

không kính, xe không đèn, không mui, thùng xe trầy xước, xe vẫn tiếp tục hoạt động vì mặt tiền hướng nam chỉ cần có trái tim trong xe.

một thời, sự tàn khốc của chiến tranh được nhắc đi nhắc lại nhiều lần qua những chi tiết như “không kính, không đèn, không mui, thân cây trầy xước”. nhưng dù chiến tranh đã tàn phá bộ máy, nhưng ý chí và nỗ lực của miền nam vẫn không dừng lại. hình ảnh của “trái tim” là một hình ảnh đẹp. tượng trưng cho lý tưởng chiến thắng và thống nhất đất nước. những chiếc xe ngày đêm băng qua mọi nẻo đường, tất cả chỉ để giúp miền nam chiến thắng.

Với hình tượng người chiến sĩ vận tải gan dạ, dũng cảm và lạc quan, “bài thơ về tiểu đội xe không kính” đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. và kết tinh đẹp đẽ nhất trong bài thơ ấy là tình bạn thân thiết, tình quê thiêng liêng.

phân tích bài thơ về tiểu đội không kính – văn mẫu 15

bài thơ về tiểu đội xe không cửa sổ “của tác giả Phạm Tiến Duật được giải nhất cuộc thi thơ báo chí văn nghệ năm 1969, cùng với bài thơ bếp lửa gửi cô gái xung phong nhớ.

thể thơ tiến bộ mang một giọng điệu tinh nghịch nhưng sâu lắng, vừa trẻ trung vừa mộc mạc. ngay đầu nhan đề bài thơ đã thấy có gì đó bất thường và buồn cười: “… xe tuần tiễu không đeo kính: tên đùa rất quân tử. Tên bài thơ khỏi phải thêm cụm từ”. bài thơ về … “Người ta chỉ biết đó là thơ, thêm cụm từ đó có tác dụng khẳng định một phẩm chất thơ mới mà trước đây người ta có thể chưa coi là thơ, hoặc cũng có thể chỉ là tác dụng nhấn mạnh.

câu mở đầu của bài thơ là lời giải thích vui của người lính về “xe không kính”, vì không ai làm xe không kính:

không có kính không phải vì ô tô không có kính

xe không kính – biểu tượng thách thức của sự tàn phá, hủy diệt. nhưng không sự tàn bạo nào có thể lay chuyển được tinh thần của những người lính lái xe:

ngồi trong buồng lái, chúng tôi ngồi nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.

Tư thế của bạn thật tử tế làm sao! mặt nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng có vẻ uy nghiêm bất khuất như lời thề. họ không hổ thẹn với đất hay trời. điều tuyệt vời nhất là hai chữ “nhìn về phía trước”: nhìn thẳng vào khó khăn, nhìn thẳng vào sự hy sinh, không sợ hãi, không né tránh.

nhưng những anh chàng lái xe còn rất trẻ và yêu đời. không có kính chắn gió, gió thổi “dụi mắt cay cay”, dường như không có sự ngăn cách giữa người lái xe và cảnh vật, họ như cảm thấy tiếp xúc trực tiếp với thế giới bên ngoài:

xem con đường đi thẳng đến trái tim

là để phát hiện khi xe đang đi nhanh, đường có vẻ chạy lùi. “chạy thẳng đến trái tim” là một khái quát sâu sắc, bởi vì nó là con đường của trái tim. nhưng khi thấy đường đi thẳng vào tim thì xe đi trên đường bằng phẳng. khi xe đang lên dốc, hoặc khi trời tối, trên trời có những vì sao. khi đường dẫn đột ngột vào đoạn nghiêng, bình đột ngột rung chuyển “như lao thẳng về phía cabin”. đó chỉ là góc nhìn cho thấy trên mặt đất con đường dốc, nguy hiểm và cũng đầy cảm xúc.

Hai khổ thơ tiếp theo nói về tính cách kiêu ngạo, bất cần đời của họ. thơ không nên thơ nhưng gần gũi với giọng văn da diết và đầy chất lính, ngang tàng, rất dễ thương:

không có kính, đúng vậy, có bột và keo xịt tóc trắng bệch giống như một ông già không cần gội đầu, phì phèo điếu thuốc, hai mặt nhìn nhau cười ha ha, không cần đeo kính, đúng vậy. , áo mưa ướt sũng, mưa như trút nước như ở ngoài không thay, chạy xe trăm cây số nữa mưa sẽ tạnh, gió mau khô.

Cảm xúc của người lính trong chiếc xe không kính được miêu tả chân thực, bụi bay tung tóe trên mái tóc bạc trắng, gương mặt lấm lem, mưa rơi như đang ở ngoài trời. nhưng người lính chấp nhận thử thách như một lẽ tất yếu: “dạ có bụi”, “áo ướt sũng rồi”. sẵn sàng chấp nhận thử thách, họ rất bình tĩnh: “bạn không cần phải giặt”, “bạn không cần phải thay đổi”. cái cách “châm điếu thuốc” và “nhìn nhau cười ha ha”, sự điềm đạm đã đạt đến độ hững hờ một cách rất trẻ trung! cái thái độ hững hờ: “… lái xe trăm cây số nữa. Mưa tạnh, gió lùa mau khô” cũng rất trẻ trung. nó là thơ, là thơ của một thế hệ trẻ. Khi viết bài này, nhà thơ chưa đầy ba mươi tuổi đã thực sự khơi dậy một niềm hứng khởi trẻ trung, tinh nghịch đối với thơ ca cách mạng và kháng chiến. khổ thơ thứ năm và thứ sáu nói về đội hình tiểu đội xe không cửa sổ:

những chiếc ô tô bị bom rơi đến đây lập đội hình gặp gỡ bạn bè trên đường để bắt tay nhau xuyên qua mảnh kính vỡ

Hình ảnh “thả xe bom” gợi liên tưởng đến những chiếc xe dũng cảm, những chiếc xe đã vượt qua thử thách. những người đã vượt qua thử thách trên con đường sắp tới bỗng trở thành bạn của nhau, và cái “bắt tay qua cửa sổ vỡ” thật đáng tự hào và sảng khoái! họ có thể chào nhau, bắt tay nhau mà không hề xấu hổ. câu thơ “tìm bạn cùng đường” cũng đầy ẩn ý sâu sắc; những người đang đi trên con đường giải phóng miền nam là những người bạn chân chính. và mặt khác, con đường đi theo là con đường thẳng, bạn đi càng nhiều, bạn sẽ càng tìm được nhiều bạn.

Đoàn xe không kính càng ngày càng tiến sâu vào trận địa. khổ thơ thứ sáu nói về cuộc sống của anh ta trên đường.

<3

những người đã được thử thách, có can đảm gặp gỡ để ăn uống, trở thành một “gia đình” máu thịt. họ liên tục được thêm vào gia đình đó. “mắc võng” ngủ trên xe để người nằm nghỉ, tài xế chạy xe liên tục. hai từ “lại đi. lại đi” được lặp lại cho thấy đoàn xe không ngừng tiến về phía trước. “trời thêm xanh” là một hình ảnh thơ mộng và giàu ý nghĩa. màu xanh nhạt là bầu trời đẹp, bầu trời bình yên, không gian cao xa, là viễn cảnh bao la. mạch thơ nối tiếp khổ thơ đầu: “nhìn đất, nhìn trời, nhìn từ đằng trước”.

Khổ thơ thứ bảy, phần kết bài thể hiện hình ảnh của những thử thách ngày càng tàn khốc. Tôi chỉ xin lỗi vì từ “xước” quá nhẹ:

không kính, không đèn, không mui xe, cốp xe bị trầy xước.

ô tô rơi từ bom đạn vẫn đi qua mưa bom, ô tô càng ngày càng hư hỏng, biến dạng. nhưng:

ô tô tiếp tục đi về phía nam miễn là có một trái tim trong ô tô.

phần kết khẳng định quyết tâm kiên cường giải phóng miền nam, tình yêu miền nam là lực lượng không gì sánh được. sự đối lập giữa tình trạng hư hỏng của chiếc xe và sự hoạt động không ngừng của chiếc xe đã nói lên tinh thần bất khuất của con người. chiếc xe được lái bằng cả trái tim và máu của những người lính anh hùng. câu cuối bài thơ thể hiện cao sức mạnh tinh thần của con người. một chiếc xe có thể thiếu nhiều thứ, nhưng không thể vô tâm hướng về phương Nam.

Cả bài thơ là lời tâm sự, tình cảm của người lính lái xe trên đường liên miên. thách thức ngày càng tăng, nhưng tốc độ và hướng không thay đổi. Vẫn là sự khẳng định tinh thần bất khuất của quân đội ta, nhưng Phạm Tiến Duật đã mang đến nhiều hình ảnh mới, tiếng nói mới trẻ trung, tinh quái và quyết đoán. bài thơ không chỉ viết về tiểu đội xe không kính mà còn phản ánh quyết tâm giải phóng miền nam của quân và dân ta, khẳng định tình dân ta bền chặt hơn sắt thép.

phân tích bài thơ về tiểu đội không kính – văn mẫu 16

pham tien du là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. bài thơ tiểu đội xe không cửa sổ là một trong những bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của ông: giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, tinh nghịch mà sâu sắc.

Xem thêm: Sơ Đồ Tư Duy Tác Giả Nguyễn Du ❤️️7 Mẫu Ngắn Hay Nhất

câu thơ tự nhiên như lời nói hàng ngày, được kết hợp với văn xuôi:

không có pha lê không phải vì xe không có pha lê. quả bom đã làm vỡ cửa sổ.

cuộc chiến tranh ác liệt của giặc Mỹ, “bom giật”, “bom rung” đã gây ra rất nhiều hư hỏng cho những chiếc xe đó. và cũng gợi lên cảm giác rằng tính mạng của người lính luôn bị đe dọa.

tác giả sử dụng một phép tương phản khá độc đáo trong câu thơ này: đi dưới mưa bom bão đạn, người lính luôn bình tĩnh, thu mình. người lính quả quyết, bất chấp bom đạn:

ngồi vào buồng lái! nhìn xuống đất, nhìn lên trời, nhìn về phía trước.

Đây là một quan điểm tự do như bỏ qua mọi nguy hiểm và khó khăn của chiến tranh. đây là ý kiến ​​của người dũng cảm. Cái nhìn của người lính tiểu đội xe không kính là cái nhìn ung dung, bình tĩnh và rất tập trung. Dù trên xe không có kính như vậy nhưng người lính vẫn bình tĩnh, tự tin đi ra mặt trận, trước nguy hiểm vẫn có vẻ ngạo nghễ. người lái xe không đeo kính thật dũng cảm. lòng căm thù giặc đã giúp họ vững vàng chỉ huy đội hình ra tiền tuyến. lòng yêu nước đã làm nên một người lính bất chấp mọi khó khăn, gian khổ của chiến tranh. ý chí chiến đấu đã khiến người lính lái xe không quản ngại khó khăn khi xe không có cửa sổ. chiếc xe không kính đã khiến người lính gần gũi hơn với thiên nhiên, hòa vào thiên nhiên trên đường ra trận:

thấy gió dụi mắt cay cay thấy đường chạy thẳng vào tim.

Vì không có kính chắn gió, người lính có thể nhìn rõ hơn. “con đường đi thẳng vào trái tim” – con đường có giá trị hiện thực và ý nghĩa biểu tượng độc đáo: con đường đã được nâng tầm thành con đường cách mạng, con đường nằm trong trái tim của mỗi chiến sĩ. con đường giải phóng miền nam thống nhất đất nước. không có kính là một mất mát lớn, nhưng nó đã tạo điều kiện thuận lợi cho các chiến sĩ có cơ hội chiêm ngưỡng vẻ đẹp của thiên nhiên. không chỉ mặt đất mà cả bầu trời đầy sao, những cánh chim như lao vào khoang tàu:

Tôi nhìn thấy những ngôi sao trên bầu trời và đột nhiên những cánh chim dường như lao vào cabin.

trong chiến tranh ác liệt, chính tình yêu thiên nhiên và vẻ đẹp lãng mạn trong tâm hồn đã giúp người lính vượt qua khó khăn. khổ là thế, nhưng những người lính không màng, họ bất chấp mọi nguy hiểm:

không kính thì có bụi, xịt cho tóc trắng như cũ.

hai tiếng “vâng” chắc chắn nhưng nhẹ nhàng, không phàn nàn hay phàn nàn. dường như những gian khổ, hiểm nguy của chiến tranh đã không ảnh hưởng đến tinh thần lạc quan của những người lính.

vì xe không có cửa sổ nên nắng thì bụi, mưa thì xối xả. ngồi trong buồng lái giống như đang ở ngoài trời. hai chữ “vâng” được lặp lại khẳng định thái độ sẵn sàng đối mặt với khó khăn, chẳng cần gội bụi, trời mưa ướt áo không cần thay:

chưa cần đổi tay lái đã đi hàng trăm km, trời tạnh mưa, gió lùa mau khô.

ý chí chiến đấu giải phóng miền nam tạo nên sức sống căng tràn thôi thúc người lính chạy “trăm dặm nữa”. một quy luật tự nhiên không thể thay đổi: mưa sẽ tạnh, gió lùa vào, áo phông sẽ “mau khô”. những người lính xuất hiện trong câu thơ đều hồn nhiên, vui vẻ và lạc quan.

Chính tình yêu quê hương đất nước, tinh thần giải phóng miền nam thống nhất đất nước đã tạo nên sức mạnh to lớn để người lính vượt qua mọi khó khăn, hiểm nguy trong chiến tranh ác liệt.

chiếc xe không kính ấy đã đưa tiểu đội vào chiến trường miền Nam chiến đấu thống nhất đất nước. Dù tác giả không nói rõ những người lính ngồi trên xe bị địch tiêu diệt từ bom đạn ra sao, nhưng độc giả có thể hình dung họ là những người từng trải và dũng cảm trong bom đạn:

đốn núi cứu nước nhưng phơi bày tấm lòng hướng về tương lai.

Một cuộc sống trẻ trung và yêu đời được thể hiện qua các chi tiết vui nhộn. họ gặp lại nhau trên đường và “bắt tay nhau qua mảnh kính vỡ”. Tình bạn, tình đồng hành không bị chia cắt bởi hoàn cảnh không thuận lợi mà ngược lại, càng khăng khít, tiếp thêm sức mạnh cho nhau để hoàn thành nhiệm vụ.

tình bạn thân thiết, tình đồng chí giữa con người, giữa những người lính trên núi đã được thể hiện sâu sắc, họ là những người cùng chí hướng:

<3

Giữa thế giới tự do, tự tại, họ cùng nhau xây dựng căn bếp hoàng gia, cùng nhau xây dựng lý tưởng và cùng nhau thắp lên ngọn lửa cách mạng. không cần thân quen, chỉ cần “chung mâm, chung đũa” là người lính đã có thể quây quần trong một gia đình, nên dù xa quê, xa quê chiến đấu, người lính không bao giờ cảm thấy cô đơn. họ nằm trên võng để nghỉ ngơi, trò chuyện cùng nhau trong những giây phút thanh thản ngắn ngủi, rồi ra về. những từ “lại đi” nối tiếp nhau như thể cuộc đời của những người lính tiếp tục tiến về phía trước. Chính nhờ những chuyến đi đó mà họ có cảm giác “trời xanh hơn”. Nó không chỉ mang ý nghĩa hiện thực mà còn mang ý nghĩa tượng trưng: không chỉ là màu xanh của bầu trời mà còn là màu xanh của hòa bình, của hy vọng về một tương lai tốt đẹp hơn.

Sự đối lập giữa hai phương diện vật chất và tinh thần, giữa ngoại thất và nội thất của chiếc xe đã làm nổi bật những phẩm chất tốt đẹp của người lính năm xưa. các bạn đã vượt qua tất cả:

không kính, không đèn, không mui xe, cốp xe bị trầy xước.

ô tô đang thiếu rất nhiều thứ mà chúng nên có. nhưng đó chỉ là những thứ vật chất, nếu thiếu thì bạn vẫn có thể khắc phục được. bạn đã nhấn mạnh thêm một chữ “có” cần thiết, đó là lý tưởng cộng sản, lý tưởng yêu nước căm thù giặc:

chỉ cần có một trái tim trong xe hơi.

đây là “tấm lòng” của một con người đầy nhiệt huyết chiến đấu vì tình yêu miền nam, nên xe vẫn lao ra tiền tuyến, bất chấp: “bom rơi, bom vỡ kính”.

với những câu thơ gần gũi như những câu văn xuôi thường ngày, tác phẩm tiên hiệp đã xây dựng một hình ảnh độc đáo: những chiếc xe không kính vẫn hiên ngang ra trận. và thông qua hình ảnh những chiếc xe, tác giả đã làm nổi bật hình ảnh những người lính kiên trung, dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm trên trường sơn chống Mỹ.

phân tích bài thơ về tiểu đội không kính – văn mẫu 17

Phạm Tiến Duật từ lâu đã được biết đến là một trong những nhà thơ trẻ tiêu biểu trong những năm Kháng chiến chống Mỹ cứu nước. là một người lính, đó là lý do tại sao nhà thơ có một phong cách trẻ trung sôi nổi, hồn nhiên và sâu lắng trong thơ. viết về hình ảnh người lính trong các sáng tác của anh không thể không kể đến “bài thơ về tiểu đội xe không kính”.

có lẽ trên chiến trường, hình ảnh những chiếc xe không có ống kính – hình ảnh thơ độc đáo đã in sâu vào trí nhớ của tác giả du ký. với hình ảnh chiếc ô tô không có cửa sổ làm cho nhan đề bài thơ thật đặc sắc- ta có thể thấy tác giả cũng sắp viết một truyện dài và rất đặc sắc. Quả thực, cũng chính hình ảnh đó đã làm nổi bật lên hình ảnh của những người lính trẻ, họ là những người lính lái xe dũng cảm đã cống hiến cả tuổi thanh xuân của mình để nghe theo tiếng gọi của quê hương.

không có pha lê không phải vì xe không có pha lê. bom và bom đã làm vỡ cửa sổ

rất ấn tượng từ ngôn từ, văn phong, nội dung cho đến cả nhịp thơ đều rất tự nhiên và vô cùng mộc mạc, giàu sức gợi. đoạn thơ trên cũng đã mang đến cho người đọc một hình ảnh lạ lẫm, vui tươi, đó là hình ảnh những chiếc xe không kính. mặt khác, chúng ta có thể thấy rằng ngay cả lời giải thích của tác giả về những chiếc xe rất đặc biệt này cũng được tác giả miêu tả chân thực đến mức gần giống như việc tháo rời một chiếc xe cũng đã bị phá hủy bởi những hình ảnh bom giật, rung chuyển. bom đạn không những thế ta còn thấy có những động từ mạnh làm nổi bật hình ảnh, ý thơ. Ngoài ra, hai dòng tự nhiên, không có những hình ảnh huyền ảo, hay những hình ảnh tráng lệ, không có những hình ảnh tượng trưng, ​​giọng thơ được sử dụng có chút thần kinh tạo nên một xuất phát điểm chứa đựng bao nhiêu ấn tượng trong bài thơ. thì khổ thơ cuối cùng của bài viết cũng đã làm cho phúng điếu tái hiện hình ảnh chiếc xe như một ý tưởng nghệ thuật độc đáo.

không kính, không đèn, không mui xe, cốp xe trầy xước

Có thể nói, những chiếc xe tương tự đã bị biến dạng và gần như bị phá hủy hoàn toàn. rồi bom đạn, chiến tranh ác liệt và nguy hiểm biết bao. ngay cả sắt thép cũng vậy, huống hồ là những con người bằng xương bằng thịt. Bất chấp khó khăn, thiếu thốn, luôn đối mặt với nguy hiểm, những toa tàu kia cứ xuất hiện một cách độc nhất vô nhị, rất cảm động, rất kiêu ngạo. Không quá lời khi nói hình ảnh chiếc ô tô không có cửa sổ đã trở thành biểu tượng trong suốt những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. qua hình ảnh chiếc xe không kính, hình ảnh người chiến sĩ lái xe cũng rất hào hoa, thông minh và dũng cảm.

ngồi trong buồng lái, chúng tôi ngồi nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.

Sử dụng những câu thơ ngắn, nhanh và sự lặp lại của điệp khúc, anh ấy đã tạo ra một nhịp điệu rất sống động cho câu thơ. thì chúng ta nhận ra rằng đó cũng là lời tường thuật về những điều đã thấy trên đường đi qua đoạn thơ sau:

Tôi thấy gió thổi vào và tôi dụi đôi mắt cay xè của mình. Tôi đã nhìn thấy con đường dẫn thẳng đến trái tim mình. Tôi nhìn thấy những vì sao trên bầu trời và đột nhiên những cánh chim dường như lao vào cabin.

hình ảnh những người lính vẫn bình tĩnh lái xe, vẫn nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng về phía trước. Hơn nữa, chúng ta có thể thấy rằng nhịp điệu của bài thơ cũng nhịp nhàng và sôi động như lời bài hát, và tiếng hát làm cho không khí của bài thơ càng vui tươi và sôi động.

Có thể nói, khi chiếc xe bị phá nát và nát bét như vậy, rất nhiều khó khăn đã nảy sinh chỉ vì chiếc xe không có kính làm như vậy:

không kính thì có bụi, tóc xịt trắng xóa như người già không đeo kính, vâng, quần áo ướt sũng, mưa tầm tã, mưa tầm tã như ngoài trời

Thật bất ngờ khi không có kính, tác giả lại đi bụi rồi dầm mưa, xem những khó khăn này là động lực để luôn lạc quan, yêu đời.

không cần tắm rửa, anh phì phèo điếu thuốc, họ nhìn nhau nở nụ cười trên môi … chưa cần thay đồ, lái xe trăm cây số cho tạnh mưa, gió mau khô.

sử dụng giọng thơ trầm bổng, vang dội, căng tràn sức sống của tuổi mười tám đôi mươi. chúng ta có thể thấy hình ảnh của những người lính trẻ trung kiên cường và trẻ trung, tháo vát. không ở lại đó mà họ còn là những người đồng chí gắn bó và có tình cảm rất khăng khít. và họ không có kính để có thể

bắt tay qua mảnh kính vỡ

hình ảnh gia đình – một hình ảnh giàu sức gợi khiến bao người, đối với những người lính lâu năm ấy cũng mang trong mình dòng máu nóng, đó là khát vọng sục sôi muốn giải phóng miền nam giải phóng đất nước:

Ô tô tiếp tục chạy vì phía trước là phía nam, miễn là trong xe có một trái tim.

hình ảnh chiếc xe như bị chiến tranh tàn phá không còn kính, bao nhiêu khó khăn rồi cũng qua đi vì chỉ trong xe có tấm lòng là đủ. tình yêu quê hương đất nước đã được thể hiện rất rõ nét và làm cho chúng ta nhận ra rằng tình yêu Tổ quốc, đồng bào, gia đình đã trở thành sức mạnh giúp các chiến sĩ có thêm ý chí vươn lên và trên hết là vì tự do của quê hương.

pham tien duat đã sáng tác một bài thơ về tiểu đội xe không kính với ca từ đầy chất thơ, chất thơ trẻ trung, nhí nhảnh và nghịch ngợm đã làm cho bài thơ thật đặc sắc, thật xúc động. bài thơ dường như đã để lại trong tâm trí người đọc một thế hệ anh hùng nhỏ tuổi trong những năm tháng gian khổ, ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. và đất nước.

phân tích bài thơ về tiểu đội không kính – văn mẫu 18

Quân giải phóng đã từng rời đi. không có trở lại. nếu bạn đi ra ngoài để bảo tồn núi và sông. nếu bạn ra ngoài, bạn thà chết chứ không phải nghỉ hưu.

Câu hát quen thuộc từ xa bỗng vang lên trong lòng ta gợi bao suy tư. Dường như chúng ta đang sống lại một thời hào hùng của đất nước với câu hát vui tươi, trẻ trung mà bình dị như chính cuộc đời của người lính. Tôi không biết đã viết bao nhiêu bài thơ về họ, những đứa trẻ đá sinh ra ở thế kỷ 20. tiêu biểu cho thời kì chống Mĩ cứu nước là bài thơ Tiểu đội xe không kính của tác giả Phạm Tiên Duật.

pham tien du là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thơ văn tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước qua hình ảnh những người lính, thanh niên xung phong trên tuyến đường trường sơn. Thơ Phạm Tiến Duật có giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, hóm hỉnh, tinh nghịch nhưng sâu sắc.

Bài thơ về tiểu đội xe không kính được sáng tác trong thời kỳ cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra vô cùng cam go và ác liệt. Từ khắp các giảng đường của trường đại học, hàng nghìn sinh viên đã gác bút lên đường đánh giặc, điểm nóng lúc bấy giờ là tuyến đường trường sơn, huyết mạch nối liền hậu phương với tiền tuyến. ra đời trong hoàn cảnh đó, bài thơ với giai điệu hào hùng, réo rắt đã thực sự trở thành tiếng kèn xung trận, trở thành khúc tráng ca quyết thắng của tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mỹ. cảm hứng về những chiếc xe không kính đã làm nền để nhà thơ chiến sĩ khắc họa thành công chân dung người lính lái xe: điềm đạm, vui tươi, lạc quan, bất chấp mọi khó khăn, gian khổ, tình đồng đội gắn bó tha thiết yêu quê hương đất nước…

Trước đây, hình ảnh xe cộ và con tàu được đưa vào thơ ca là “đẹp”, “lãng mạn” và thường mang ý nghĩa tượng trưng hơn là hiện thực. Người đọc đã từng bắt gặp chiếc xe ba gác trong bài thơ Pus-Kin, con tàu trong Bài ca con tàu của Chế Lan Viên, đoàn thuyền đánh cá trong bài thơ cùng tên của Huy. Trong bài thơ này, hình ảnh những chiếc xe không kính được miêu tả cụ thể, chi tiết rất thực. Thông thường, để đảm bảo an toàn tính mạng con người và tài sản, nhất là ở những địa hình gồ ghề, xe phải có kính. tuy nhiên, câu chuyện về “chiếc xe không kính” là một thực tế, một hình ảnh thường thấy trên đường trường sơn.

Hai dòng mở đầu có thể được coi là lời giải thích cho “sự cố” có phần bất thường này:

“Không có kính không phải do ô tô không có bơm chống giật, bơm rung hoặc kính bị vỡ.”

Lời bài hát tự nhiên đến mức ngay lập tức khiến người ta tin vào ý chí quyết tâm của những người lái xe dũng cảm. Chất thơ của đoạn thơ này được thể hiện ở sự tự nhiên đến bất ngờ của ngôn từ. với câu thơ rất thực, đậm chất văn xuôi, điệp ngữ “không” cùng với những động từ mạnh “nhảy”, “rung rinh”. tác giả giải thích lý do cho sự vắng mặt của các tinh thể trong ô tô. bom đạn thời chiến đã làm cho những chiếc xe cong vênh “không kính”, “không đèn”, “không mui”, “trầy xước toàn thân”. Từ đó, tác giả đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng cụ thể, sâu sắc về hiện thực chiến tranh khốc liệt và khốc liệt, về cuộc chiến gian khổ mà người lính phải trải qua.

Hình ảnh những chiếc ô tô không có cửa sổ không hiếm gặp trong chiến tranh, nhưng phải cần một tâm hồn thơ nhạy cảm, với những nét tinh nghịch, độc ác như âm thanh mới phát hiện, đưa vào thơ và trở thành biểu tượng độc đáo của thơ ca thời chống Mỹ.

hình ảnh những chiếc ô tô không có kính đã làm nổi bật rõ nét hình ảnh những người lính lái xe trong trường vẽ. không có điều kiện, phương tiện vật chất tối thiểu là cơ hội để người lính chứng tỏ phẩm chất cao quý, sức mạnh tinh thần to lớn, hơn hết là lòng dũng cảm và tinh thần quật cường.

<3

“cabin yên tĩnh lại, chúng tôi ngồi nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.”

nghệ thuật đảo ngữ với từ lóng “cung” được đảo ngữ ở đầu câu thứ nhất và nghệ thuật đảo ngữ với từ “nhìn” được lặp đi lặp lại ở câu thơ thứ hai đã nhấn mạnh tư thế ung dung, bình thản. cách lái tĩnh và tự tin của một người lính. Bất chấp mọi trở ngại, khó khăn, bất chấp nguy hiểm, người lính vẫn vững vàng ngồi vào buồng lái để làm nhiệm vụ. Từ chiếc xe không có cửa sổ, người lính quan sát cảnh tượng bên ngoài. cái nhìn của ông là cái nhìn bao quát, rộng mở “nhìn đất”, “nhìn trời”, đồng thời trực diện và rất tập trung, “nhìn thẳng về phía trước”. bạn nhìn vào những khó khăn, gian khổ và hy sinh mà không sợ hãi hay trốn tránh: một lòng can đảm vững chắc. bất chấp bom đạn, anh vẫn kiên cường. người lính lái xe thật dũng cảm và anh dũng.

Trong tư thế thư thái đó, người lính lái xe có những cảm giác riêng khi tiếp xúc trực tiếp với thiên nhiên bên ngoài:

“Tôi thấy gió lùa vào tôi dụi đôi mắt cay xè, tôi thấy con đường đi thẳng vào lòng mình, tôi thấy những vì sao trên trời bỗng chốc những cánh chim như rơi xuống, như lao thẳng vào căn nhà gỗ. ”.

Phía sau tay lái của ô tô không có kính chắn gió nên các yếu tố thiên nhiên, chướng ngại vật rơi xuống, văng mình và đâm vào cabin. tuy nhiên, quan trọng hơn là họ có cảm giác bay bổng, hòa mình với thiên nhiên, từ đó có thể tự do giao tiếp và chiêm ngưỡng thế giới bên ngoài. Điều này được thể hiện trong nhịp thơ đều đặn, trôi chảy như một chiếc xe lăn với việc sử dụng linh hoạt các phép ngụ ngôn và phép liệt kê “thấy”. có rất nhiều cảm xúc về người lính trên những chiếc xe không kính. những hình ảnh “con đường”, “bầu trời đầy sao”, “cánh chim” … miêu tả rất cụ thể cảm giác của những người lính lái xe ô tô không có cửa sổ. khi xe chạy trên đường bằng, tốc độ xe chạy nhanh dường như không có khoảng cách giữa bạn và đường nên bạn có cảm giác đường đi thẳng vào lòng mình. và cảm giác thú vị khi xe chạy vào ban đêm, “nhìn thấy những vì sao” và khi đi qua những khúc cua gấp, những chú chim như muốn “lao vào cabin”. thiên nhiên, mọi thứ dường như bay bên cạnh chiến trường. nhịp thơ trở nên nhanh, sôi động thể hiện tình yêu cuộc sống, thiên nhiên, tinh thần lạc quan của một chiến sĩ giải phóng quân thời chống Mỹ. tất cả những điều này đã giúp người đọc cảm nhận được ở họ sự bồng bột, hào hoa, lãng mạn và yêu đời của những người trẻ tuổi. chúng đều là thực, nhưng qua cảm nhận của nhà thơ, chúng đã trở thành những hình ảnh lãng mạn.

Một vẻ đẹp khác làm nên bức chân dung tinh thần của người lính trong bài thơ là tinh thần lạc quan, nhiệt huyết, bất chấp khó khăn, hiểm nguy:

“không có kính thì đúng là có bụi, bụi rắc tóc trắng như một ông già không cần gội, phì phèo điếu thuốc, họ nhìn nhau nở nụ cười trên môi, ha ha . không đeo kính thì có, áo mưa ướt, mưa xối xả như ngoài kia mà cần phải thay, chạy xe cả trăm km thì mưa sẽ tạnh, gió lùa nhanh khô. ”

Những câu thơ đơn giản như những từ ngữ thông thường, với một giọng điệu bình tĩnh và hóm hỉnh. cấu trúc: “không…”; “cũng …”, “không cần” được lặp đi lặp lại, các từ “phpheu”, “cười ha ha”, “mau khô” … làm nổi bật niềm vui, tiếng cười của người lính một thời tự nhiên trỗi dậy giữa cái khó khăn và nguy hiểm của trận chiến. Cái tài của phúng điếu trong bài thơ này là hai câu đầu nói về hiện thực phũ phàng phải chấp nhận, hai câu cuối thể hiện tinh thần vượt khó vươn lên hoàn cảnh của người lính nghĩa quân trong chiến tranh ác liệt. xe không có cửa sổ nên “bụi văng tóc trắng như cố nhân” là lẽ đương nhiên, xe không có cửa sổ nên “ướt”, “trời mưa thì mưa như trút nước” là lẽ đương nhiên. đối mặt với mọi khó khăn, nguy hiểm, anh em vẫn “cười”, không cần băn khoăn, lo lắng, sẵn sàng chấp nhận thử thách, khó khăn như một lẽ tất yếu. bạn sử dụng sự bất biến của lòng dũng cảm và lòng dũng cảm để vượt qua những ý tưởng bất chợt của chiến trường gian khổ và khốc liệt của sự sống và cái chết. đọc những câu thơ này giúp ta hiểu được phần nào cuộc đời của người lính nơi chiến trường trong những năm tháng chống giặc giữ nước ta. uu. Đó là cuộc sống gian khổ trong bom đạn ác liệt, nhưng đầy lạc quan, ảo tưởng và yêu đời. Thật đẹp và đáng tự hào!

Sâu xa hơn, bằng lăng kính điện ảnh của người nghệ sĩ, nhà thơ đã ghi lại những khoảnh khắc đẹp thể hiện tình bạn thân thiết của những người lính lái xe không kính:

“Những chiếc ô tô bị bom rơi đã đến đây để thành lập đội gặp gỡ những người bạn trên đường và bắt tay nhau qua những mảnh kính vỡ.”

Chính sự khốc liệt của chiến tranh đã tạo nên đội xe không kính. ô tô từ khắp nơi đổ về đây lập thành đội. hình ảnh những chiếc ô tô trần trụi, xấu xí, không kính xếp thành từng đội. một hình ảnh mang vẻ đẹp lãng mạn nhưng gai góc. những chiếc xe “tập kết” là hình ảnh những người lính lái xe cùng nhau hàn huyên, chia sẻ những buồn vui của đời lính. chỉ cần nhìn thấy “những người bạn trên đường” là niềm vui và hạnh phúc trào dâng trong tâm hồn họ. chiếc xe không cửa sổ đã trở thành điều kiện thuận lợi để anh em thể hiện tình cảm của mình. “Cái bắt tay” đặc biệt là “bắt tay qua mảnh kính vỡ”. Đây là một cái bắt tay thân mật của những người cùng chí hướng, một cái bắt tay truyền lửa: ngọn lửa thắp sáng những chặng đường ác liệt được thắp lên từ trái tim của hàng triệu chiến sĩ tràn đầy nhiệt huyết cách mạng. những con người là “người ngoài cuộc”, gặp nhau trên chiến trường, đồng điệu với tình yêu quê hương đất nước và trở thành đồng chí, “đồng đội”. Họ kề vai, sát cánh, không chỉ trong những giờ phút ác liệt qua mưa bom bão đạn, đối mặt với kẻ thù, cận kề cái chết, mà còn trong những giây phút ấm áp, thân thiết. có một cuộc gặp gỡ với ý thơ vừa phải trong bài thơ “đồng chí”: “thương nhau thì dắt tay nhau đi” mà hồn nhiên, trẻ trung hơn. đó là quá trình trưởng thành của thơ ca và quân đội Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc.

tình đồng hành và tình bạn thân thiết cũng được thể hiện một cách ấm áp và giản dị thông qua các hoạt động của họ:

“Căn bếp hoàng gia giữ mình giữa trời và chung bát đũa nghĩa là gia đình bế tắc, đến rồi đi, trời xanh hơn”.

bị mắc kẹt trong chiến đấu, nhiều hơn nữa bị mắc kẹt trong cuộc sống hàng ngày. sau những giây phút nghỉ ngơi và bữa cơm đoàn tụ, những người lính lái xe xích lại gần nhau thành một gia đình: “chung đĩa, chung đũa là gia đình”. định nghĩa về gia đình đúng là quân tử, vui nhộn mà chân thành vô cùng. Đó là một gia đình của những người lính có cùng sứ mệnh, lý tưởng chiến đấu. những hình ảnh “bếp núc”, “võng xếp bấp bênh” là hiện thực của cuộc sống chiến trường và trở thành chất thơ tự nhiên như hơi thở của núi rừng. hồn thơ tự nó bắt nguồn từ những hiện thực bình dị ấy. nhưng nhịp thơ được tạo nên bởi nhịp dao động, bởi nhịp quay của guồng quay. từ láy không chỉ bổ sung vần cho câu thơ mà còn có sức gợi sâu sắc. Đó là hình ảnh thực của con đường hay là những khó khăn trở ngại, hiểm nguy mà những người lính phải đối mặt trong chiến tranh? nhưng lòng dũng cảm và ý chí chiến đấu của những người lính ấy luôn vững vàng, bất biến. ngọn lửa của trái tim và tình bạn thắm thiết: tình cảm của những người trong cùng một “gia đình” đã nâng bước lạc quan, xốn xang, cất lên tiếng hát, vượt qua “bom đạn xung kích” để “lại đi”, lên trời xanh lần nữa ”. Từ “lại” được lặp lại hai lần vừa thể hiện nhịp sống, nhịp điệu chiến đấu của bộ đội xe không kính, vừa khẳng định bản lĩnh, ý chí cách mạng vững vàng không kẻ vũ phu nào có thể ngăn cản được các chiến sĩ. của bầu trời, một màu xanh tràn đầy hi vọng, nơi gợi lên tâm hồn lạc quan, sức trẻ, khát vọng và niềm tin vào chiến thắng của người lính miền núi, chính tình đồng chí, tình đồng đội đã trở thành động lực giúp anh em vượt qua khó khăn, hiểm nguy, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc thân yêu, sức mạnh của người chiến sĩ thời đại Hồ Chí Minh là sự kết hợp giữa vẻ đẹp truyền thống và truyền thống hiện đại, là hiện thân của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. chim hoàng yến, hình ảnh đẹp nhất của thế kỷ “giống như viên đá khai sinh của thế kỷ 20” (tou).

Khổ thơ cuối đã hoàn thiện vẻ đẹp của người lính, đó là lòng yêu nước, ý chí chiến đấu giải phóng miền nam:

“Không kính, xe không đèn, không mui, thùng xe có vết xước, xe vẫn chạy do mặt tiền hướng Nam – chủ xe phải có tâm.”

Ngày nay ô tô không chỉ mất cửa kính mà còn không có đèn, không có mui, cốp xe bị trầy xước. từ “không” cùng với danh sách “kính bảo hộ, đèn chiếu sáng, mũ trùm đầu, hòm” được miêu tả sinh động hơn, chân thực sự tàn phá và tàn phá khủng khiếp của chiến tranh. chiếc ô tô bị biến dạng hoàn toàn. Những người lính gặp rất nhiều khó khăn. gian khổ của chiến trường nhân lên gấp nhiều lần, nhưng không thể ngăn cản được những đoàn xe nối đuôi nhau ngày đêm.

nhưng lý do gì mà những chiếc xe nát bươm này vẫn hoạt động như những bộ quần áo khiêu vũ? nhà thơ giải thích: “miễn là có trái tim trong xe”. câu thơ tăng tốc mạnh mẽ như nhịp đua của những chiếc xe không kính. từ miêu tả “vẫn” thể hiện ý chí, quyết tâm của người chiến sĩ, không gì lay chuyển được trước sự ngạo nghễ ấy. từ hàng loạt tiếng “ta” trên, nhà thơ khẳng định có cái có, cái có của “tấm lòng”. “trái tim” là một phép tu từ ẩn dụ chỉ người lính lái xe tải năm xưa. lòng họ đau xót khi chứng kiến ​​cảnh đồng bào miền Nam sống trong khói bom thuốc súng, chia cắt đất nước thành hai miền. trái tim ấy chan chứa tình yêu Tổ quốc như máu thịt, như cha với mẹ, như vợ như chồng… trái tim ấy luôn sôi sục lòng căm thù giặc Mỹ tàn bạo. yêu và ghét là động cơ thúc đẩy những người lính khát vọng giải phóng miền nam thống nhất đất nước. để ước mơ này thành hiện thực, chỉ có một cách duy nhất – ổn định tay lái, vững tay lái. do đó, thử thách tăng lên, nhưng tốc độ và hướng vẫn như cũ. ẩn sau những ý nghĩa ấy, câu thơ còn muốn dẫn dắt mọi người đến với chân lý của thời đại chúng ta: sức mạnh quyết thắng không phải là vũ khí, mà là con người giàu ý chí, anh dũng, lạc quan, quyết thắng. . dòng cuối của bài thơ có thể coi là dòng hay nhất của bài thơ. Nó là nhãn quan, là con mắt thơ, nó soi sáng chủ thể, nó tỏa sáng vẻ đẹp của hình ảnh người lính lái xe thời chống Mỹ.

giọng thơ hào sảng, thậm chí có phần tinh quái, rất phù hợp với chủ đề miêu tả (những anh chàng lái xe ô tô không đeo kính). giọng điệu ấy khiến bài thơ gần với văn xuôi, đối thoại, lời nói đời thường mà vẫn hay, nên thơ. sự kết hợp linh hoạt của thể thơ 7 và 8 chữ tạo nên nhịp thơ gần gũi với lối nói tự nhiên, sinh động. Những yếu tố về ngôn ngữ và giọng điệu của bài thơ đã góp phần làm nên hình ảnh người lính lái xe trên tuyến đường chân thực và sinh động. Bài thơ không chỉ nói về tiểu đội xe không kính mà còn phản ánh quyết tâm giải phóng miền Nam của toàn quân và dân ta, khẳng định ý chí quật cường của con người.

Qua bài thơ, tác giả đã xây dựng hình tượng những người lính đi đầu trong cuộc kháng chiến chống Mĩ là những anh hùng, dũng cảm, lạc quan, yêu đời, không quản ngại khó khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ, biết bao hy sinh vì nghĩa lớn, vì dân, vì nước:

Vết thương gầy được đưa vào viện vẫn chờ tiếng xe nằm ngửa nhớ trăng, nằm nghiêng nhớ bến tàu, đứng dậy nghĩ lại bước chân.

Người lính thời đại Hồ Chí Minh là vẻ đẹp kết hợp giữa truyền thống và hiện đại. Họ là hiện thân của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là hình ảnh tiêu biểu của thế hệ trẻ Việt Nam trên tuyến đường Trường Sơn gian khổ và anh dũng.

phân tích bài thơ về tiểu đội không kính – văn mẫu 19

“Chặt núi cứu nước, tim ta đập vì tương lai”

Đây là những câu thơ hay mà nhà thơ toan viết để ca ngợi cả một thế hệ thanh niên xung phong, những chàng trai, cô gái đã dũng cảm rời xa gia đình, từ bỏ giảng đường đại học, đi học theo tiếng gọi thiêng liêng của quê hương. họ đã ra đi và đảm nhận một chặng đường dài đẫm máu, nơi bom đạn kẻ thù không ngừng rơi xuống, nơi sự sống và cái chết trở nên mong manh với một niềm tin lạc quan vào tương lai đất nước. và viết về những người lính trên tuyến đường trường sơn năm ấy không thể không kể đến bài thơ “Bài thơ xe tuần không kính” của nhà thơ Phạm Tiên Duật.

Bài thơ đã khắc họa thành công hình ảnh những người lính lái xe trên tuyến đường trường sơn trong những năm chống Mỹ với tư thế kiêu hãnh, dũng cảm, bất chấp gian khổ, khó khăn, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ, giải phóng miền nam thống nhất đất nước. quốc gia. hình ảnh những chiếc ô tô không có cửa sổ và phong thái lịch thiệp của người lính ngồi sau tay lái khiến người đọc bất ngờ:

“Không có kính vì xe không có bơm giật, bơm rung kính vỡ rồi chúng tôi ngồi trong cabin, nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.”

p>

Đoạn thơ mở đầu bằng hình ảnh những chiếc xe không cửa sổ một cách rất tự nhiên, mộc mạc và xen lẫn gián tiếp của người lính. những nét chữ giản dị, tự nhiên và gần gũi với đời thường khi bước vào trang viết. nhưng đằng sau những vần thơ mộc mạc, giản dị ấy lại ẩn chứa một hiện thực vô cùng khốc liệt của chiến tranh, cảnh mặt đường bị cày xới, vá víu với những hố bom. hình ảnh những chiếc kính chắn gió xe ô tô vỡ nát, do “bom giật, bom rung” gầm rú dữ dội đã làm chứng cho cuộc chiến đấu nguy hiểm, ác liệt của người lính lái xe. biết bao hiểm nguy, gian khổ chực chờ, đe dọa tính mạng con người. Tuy nhiên, lạ thay, khi kể lại, giọng người lính trẻ rất điềm đạm, vô tư và nhẹ nhàng. Bạn phải là người dũng cảm, không ngại khó, không ngại hy sinh tính mạng của bản thân thì mới có cách nói nhẹ nhàng, tự nhiên như vậy:

“trong buồng lái, chúng ta ngồi và nhìn đất, chúng ta nhìn lên trời, chúng ta nhìn thẳng về phía trước”

Từ “hiệp sĩ” gợi lên hình ảnh của một người lính trong tư thế điềm tĩnh, ngồi điềm tĩnh, tự do tự tại, ngang tàng, kiêu ngạo, không quan tâm hay sợ hãi. từ “nhìn” cho ta cảm giác người lính đang mở to mắt nhìn trời cao, rộng lớn. Đặc biệt, từ trực tiếp nhấn mạnh thái độ quyết tâm, tự tin của một người sẵn sàng đối mặt với mọi khó khăn, thử thách đang chờ đón mình trên con đường phía trước.

vì không có kính nên thiên nhiên, đất trời rộng mở trước mắt người lính. Các chướng ngại vật đối với việc lái xe an toàn giờ đang lung lay trong buồng lái:

“Tôi thấy gió lùa vào tôi dụi đôi mắt cay xè, tôi thấy con đường đi thẳng vào lòng mình, tôi nhìn thấy những vì sao trên bầu trời và bất chợt những cánh chim như rơi xuống, như lao về phía cabin ”

Ngồi trong cabin không có kính chắn gió, người lính có cơ hội nhìn thẳng vào thiên nhiên trước mắt và cảm nhận con đường đang lao về phía mình. gió lùa vào cabin như muốn xoa dịu đôi mắt chua xót vì bụi đường. Đặc biệt, bạn có thể cảm nhận được những cánh chim và những vì sao sáng trên bầu trời, như đang lao vào cabin để đồng hành cùng trái tim bạn trên hành trình dài hàng nghìn dặm.

Cảnh tượng vụt qua trước mắt người lính. Qua cách cảm nhận hồn nhiên và vô tư đó, chúng ta hình dung chiếc xe đang đi với tốc độ rất nhanh. hình ảnh con đường đi thẳng vào lòng người vừa là hình ảnh thực tượng trưng cho tốc độ cao của dòng xe vừa là hình ảnh ẩn dụ cho con đường lí tưởng. Đó là con đường ra mặt trận, con đường đấu tranh vì độc lập, tự do của Tổ quốc mà người lính tình nguyện dấn thân theo suốt cuộc đời.

Mặt khác, hình ảnh thiên nhiên hiện lên trong bài thơ này với vẻ đẹp thơ mộng của bầu trời cao vời vợi ánh trăng lung linh và những vì sao sáng lấp lánh giữa đêm, với cánh chim bay lượn đầy sức mạnh thể hiện vẻ đẹp trong tâm hồn. của người lính. . đó là những người có tâm hồn lãng mạn, họ yêu đời. Con đường của ảnh dù gian nan nhưng người lính vẫn mở lòng đón nhận vẻ đẹp tự nhiên của đất trời, tạo vật dù chỉ trong giây phút.

Những khó khăn trên đường hành quân và tinh thần chịu đựng khó khăn càng khẳng định lòng dũng cảm phi thường của người lính đầu tàu:

“Không có kính, đúng vậy, có bụi, keo xịt tóc trắng bệch như những ông già chưa gội đầu, phì phèo điếu thuốc, họ nhìn nhau nở nụ cười trên môi, ha ha.

không kính, đúng vậy, quần áo ướt, mưa như trút nước, mưa như trút nước như ở ngoài không thay đồ, chạy xe trăm km mưa sẽ tạnh, gió lùa mau khô. “

Vì điều khiển xe ô tô không có kính nên trong quá trình hành quân, các chiến sĩ đã phải chịu nhiều gian khổ như mưa tầm tã, mưa tầm tã, bụi bay trắng xóa như một cụ già, áo ướt sũng, mặt đường lem luốc. bụi bặm. . rất nhiều khó khăn, thất vọng và khó chịu, nhưng bạn phải là một người lính.

không cần tắm rửa, châm một điếu thuốc, cười với nhau, ha ha. Không cần phải thay đổi tay lái hàng trăm dặm, mưa sẽ tạnh và gió sẽ khô nhanh chóng là một cách nói lạc quan. Là quân tử phải biết coi thường nghịch cảnh, dù là mưa gió, bụi đời, ướt áo cũng phải vượt qua. luôn phải ổn định tay lái, tiếp tục đưa xe băng vào trận địa tiếp viện. Là một người lính, bạn phải biết vượt qua mọi khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ.

Từ chi tiết này, chúng ta nhận thấy một vẻ đẹp trong tâm hồn của những người chiến sĩ là những con người có tinh thần trách nhiệm cao. con người biết coi thường nỗi vất vả của chính mình. đặc biệt là các chiến sĩ trẻ trung, sôi nổi, tràn đầy tinh thần lạc quan, yêu đời, yêu đời. họ luôn biết cách mỉm cười ngay cả trong những tình huống khó khăn.

ha ha, tiếng cười vui tươi, tinh nghịch không chỉ thể hiện sự hồn nhiên, trẻ trung, sôi nổi của các chú bộ đội mà còn thể hiện tinh thần quả cảm, lạc quan. nó gợi cho ta liên tưởng đến nụ cười chua chát của những người lính vệ quốc thời kỳ kháng chiến chống Pháp trong bài thơ “đồng chí” của người chính nghĩa. nụ cười ấy giúp con người ta quên đi mọi khó khăn, có thêm niềm tin vào sức mạnh để vượt qua bom đạn, chông gai trên con đường phía trước. Chính trên con đường nguy hiểm đó, tình bạn thân thiết và tình đồng hành được củng cố và bồi đắp bằng sự cảm thông và tin tưởng sâu sắc:

“Ô tô rơi vì bom đạn. Mình đến đây thành lập đội hình gặp gỡ bạn bè trên đường để bắt tay nhau qua lớp kính vỡ”.

bếp núc vương vấn mình giữa trời chung bát đũa, nghĩa là gia đình tắc đường, xuôi ngược, lại lên trời xanh. ”

tình cảm thân thiết, gắn bó của người lính lái xe đêm không chỉ hình thành ở nơi dầu sôi lửa bỏng, nơi chiến trường ác liệt, hay khi “vũ khí gần kề, đầu gần. đối đầu ”, cùng nhau xông pha trận mạc mà còn khi dọn bếp giữa trời. tình bạn thân thiết khi chúng ta dùng chung đĩa đũa và cùng đi dã ngoại trong rừng. chiếc võng treo trên lối đi, chúng tôi nằm xuống và kể những câu chuyện về cảm xúc của mình.

chỉ là trong những giây phút gặp gỡ rất ngắn ngủi, tình cảm của nam nữ chính vẫn tiếp tục hình thành thiêng liêng, sâu sắc, khăng khít, như những thành viên ruột thịt trong gia đình. vẫn đau lòng khi nghe tin đồng đội hy sinh và choáng váng khi một ngày trên đường ra trận, họ gặp lại người bạn của mình.

họ đã trao nhau một cái bắt tay, một nụ cười, ánh mắt, lời nói và rất nhiều tình yêu nồng nàn và ấm áp đã trao nhau. từ đó tiếp thêm niềm tin, tiếp thêm sức mạnh, động viên nhau vượt qua khó khăn, gian khổ trên con đường phía trước. sau những khoảnh khắc ngắn ngủi đó, họ tiếp tục “một lần nữa, trở lại, bầu trời xanh hơn.” đi thấy bầu trời trong xanh, không còn thấy khói lửa vũ khí, bom đạn của kẻ thù. đi để đất nước được thống nhất trong hòa bình.

một lần nữa, hình ảnh chiếc ô tô không kính lại hiện ra, khép lại khúc tráng ca hào hùng:

“Không kính, xe không đèn, không mui, thùng xe có vết xước, xe vẫn chạy về phía Nam: miễn là trong xe có tấm lòng.”

Từ “không” được lặp đi lặp lại nhiều lần như nhấn mạnh hiện thực tàn khốc của chiến tranh, với hình ảnh một chiếc xe méo mó, biến dạng. nguy hiểm rình rập mỗi bước của con đường. sự khốc liệt của chiến tranh thể hiện ngay ở những lỗ đạn còn in hằn trên thùng xe. nhưng dù khó khăn, hiểm nguy, dù chiến tranh tàn khốc đến đâu, những người lính vẫn vững tin lái xe tiến lên, hướng về miền Nam thân yêu.

Chính sức mạnh của lòng yêu nước đã truyền cảm hứng và khơi dậy lòng quả cảm ở những người lính, khiến họ trở thành những anh hùng của thời đại. Những tấm lòng yêu nước nồng nàn tỏa sáng trong tâm hồn người lính trẻ, những trái tim khao khát giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. mong muốn được đóng góp, hiến máu, xương máu của mình cho sự nghiệp kháng chiến trường kỳ của dân tộc, để đất nước hòa bình, thống nhất, đời sống nhân dân ngày càng tốt đẹp. chiếc xe tiếp tục chạy về phía nam phía trước vì luôn có một trái tim đầy khí phách.

như một lời tuyên bố hùng hồn, thể hiện quyết tâm giải phóng miền nam thống nhất đất nước của cả thế hệ thanh niên Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. ngày hôm đó. Chính vì lòng yêu nước nồng nàn ấy mà bộ đội ta đã góp công sức mình để lập nên những chiến công hiển hách trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc.

chữ viết đơn giản, tự nhiên, đậm đà như lời ăn tiếng nói trong cuộc sống hàng ngày. hình ảnh của bài thơ chân thực, giản dị như được lấy từ thực tế chiến đấu đã làm nên vẻ đẹp rất riêng của bài thơ là chân chất, mộc mạc và rất sâu lắng.

Hình ảnh người chiến sĩ anh hùng, dũng cảm, lạc quan, yêu đời, không quản ngại gian nguy để hoàn thành nhiệm vụ, biết hy sinh quên mình vì nghĩa lớn, vì nhân dân, vì quê hương là nguồn cảm hứng bất tận trong thơ. của sức bền. lý tưởng sống vì muôn người, tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” có vai trò cổ vũ tinh thần cho bộ đội tiến lên. thậm chí, dù bị thương, họ vẫn “thản nhiên” nhìn nghịch cảnh:

“Vết thương đã đưa vào viện còn đợi tiếng xe nằm ngửa nhớ trăng, nằm nghiêng nhớ bến tàu, dậy nhớ lưng đèo”.

(bài hát lái xe đêm – để huu)

trước lời kêu gọi xuống đồng, các bạn trẻ đã không ngần ngại bước đi. nhà thơ thanh tao trong bài thơ “khổ thơ thứ bảy” đã có những lý giải chân thực và hay:

“Chúng ta đã ra đi mà không nuối tiếc cuộc đời (làm sao chúng ta không hối tiếc khi bước sang tuổi hai mươi) nhưng mọi người đều tiếc nuối khi bước sang tuổi hai mươi, và đất nước?”

đáp lại núi non sông nước, ngay cả những thiếu nữ như nho, phùng đình (Những ngôi sao xa xôi – lê minh khê) cũng anh dũng rời bỏ quê hương thanh bình, thân thuộc và yêu dấu để lên đây núi non, tham gia chống giặc ngoại xâm của dân tộc.

Đó là những con người “hiên ngang, bất khuất trong thiên hạ”. anh dũng “không tiếc mạng sống” vì hạnh phúc cuối cùng của cả dân tộc. họ là linh hồn của dân tộc, là sức mạnh của sông núi đất nước. phần tử đã so sánh những người trẻ này với “những viên đá của thế kỷ 20”. Họ là những người con của nhân dân, giản dị, khiêm tốn, gần gũi nhưng vĩ đại – sự vĩ đại của một thế hệ anh hùng.

Bộ đội Cụ Hồ là sự kết tinh sâu sắc nhất những truyền thống tốt đẹp của dân tộc trong suốt bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước. hình ảnh người lính mãi mãi là hình ảnh đẹp nhất trong thơ ca, mãi mãi là chân dung đẹp nhất của thời đại chúng ta

bài thơ về tiểu đội xe không kính là bài ca ngợi sức mạnh chiến đấu của bộ đội Việt Nam trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước. chính tình đồng đội, tình bạn thân thiết đã trở thành động lực giúp họ vượt qua khó khăn, hiểm nguy, chiến đấu bảo vệ quê hương thân yêu. sức mạnh của người lính thời đại Hồ Chí Minh là vẻ đẹp kết hợp giữa truyền thống và hiện đại. họ là hiện thân của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là hình ảnh đẹp nhất của thế kỷ “như viên đá khai sinh của thế kỷ 20” (tou).

phân tích bài thơ về tiểu đội không kính – văn mẫu 20

Tên bài thơ về tiểu đội xe không kính khá dài, xem ra không cần thiết. nhưng vì vậy nó rất độc đáo, gây sự chú ý. nhan đề làm nổi bật hình ảnh của bài thơ. ô tô không có cửa sổ bức tranh này là một khám phá thú vị của tác giả, nó thể hiện sự gắn bó và hiểu biết sâu sắc về thực tế cuộc sống chiến tranh trên tuyến đường sơn cước. hai chữ “thơ” thể hiện rõ hơn cách nhìn và cách khai thác hiện thực của tác giả: ông không chỉ viết về những chiếc xe không kính hay hiện thực khốc liệt của chiến tranh, mà cái chính là tội ác của quá trình tiến bộ. hiện thực, chất thơ của tuổi trẻ dũng cảm, dũng cảm, vượt qua đói nghèo, gian khổ, hiểm nguy của chiến tranh.

những chiếc xe không kính vẫn ra trận là hình ảnh đặc sắc của bài thơ. hình ảnh xe cộ và con tàu được đưa vào thơ ca thường “đẹp”, “lãng mạn” và thường mang ý nghĩa tượng trưng.

trong bài thơ này, những chiếc xe không có cửa sổ là một hình ảnh thực và trần trụi. cách giải thích của tác giả về nguyên nhân cũng rất thực tế: “không có kính thì không phải xe không kính. bom đạn làm rung kính”. câu thơ giàu chất văn xuôi có giọng văn trầm lắng, gây chú ý hơn về dáng vẻ khác lạ của những chiếc xe. cách giải thích của tác giả cho thấy đây là những chiếc xe đã trải qua bom đạn, thử thách, chúng là những chiếc xe của những con người dũng cảm. sự bất thường của chiếc xe đã được bình thường hóa.

bom đạn chiến tranh còn làm cho những chiếc xe bị phá hủy, biến dạng, trần trụi hơn: “xe không kính, xe không đèn – không mui, thùng xe trầy xước”. tất cả những “không” và “có” (với “trầy xước” cũng là thiệt hại bổ sung) là tổn thất, mất mát, có thể ảnh hưởng đến việc lăn bánh của xe. nhưng khối óc, linh hồn của chiếc xe dường như không phải là cỗ máy mà là trái tim của người chiến sĩ, vì vậy: “xe cứ chạy về phương Nam, chừng nào trong xe còn có trái tim”. Hình ảnh những chiếc xe không kính không hiếm gặp trong chiến tranh, nhưng phải cần một hồn thơ nhạy cảm, tinh nghịch và thích những điều quái gở như tiểu thuyết gia mới nhận ra và đưa vào thơ ca để trở thành một hình tượng. Thơ thời chống Mỹ. hình ảnh này tạo nên nét độc đáo, vừa thể hiện sự khốc liệt, ác liệt của chiến tranh, đồng thời bộc lộ phẩm chất cao quý của người chiến sĩ trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ ác liệt. hình ảnh những chiếc ô tô không có cửa sổ trong bài thơ góp phần khắc họa tư thế và chân dung của một dân tộc anh hùng.

hình ảnh người lính lái xe trường núi trong cuộc kháng chiến. chủ nghĩa chống Mỹ được khắc họa đậm nét trong bài thơ. Hình ảnh của anh ấy được miêu tả gắn liền với những chiếc ô tô và nổi bật trong suốt bài thơ.

xe không kính là biểu tượng của khó khăn, thiếu thốn, vất vả. những điều kiện vật chất thiếu thốn tối thiểu là cơ hội để người lính được khích lệ thể hiện phẩm chất cao quý, sức mạnh tinh thần to lớn và trên hết là lòng dũng cảm, tinh thần bất chấp gian khổ, khó khăn.

Người lái xe được mô tả với những ấn tượng và cảm giác rất cụ thể khi ngồi trong một chiếc ô tô không có cửa sổ. với tư thế “nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng khung cửa ô tô không có kính chắn gió, người lái xe tiếp xúc trực tiếp với thế giới bên ngoài:“ thấy gió lùa vào, dụi mắt chua chát / thấy con đường chạy thẳng vào tim / Em thấy sao trời bỗng cánh chim bay / như lao vào cabin. bài thơ miêu tả cảm giác về tốc độ của những chiếc xe nhanh chóng trên đường cao tốc. Qua khung cửa xe không kính, không chỉ mặt đất mà cả bầu trời đầy sao, chim chóc như lao vào cabin. nhà thơ miêu tả chính xác cảm giác mạnh mẽ, đột ngột của người ngồi trong ca-bin. những hình ảnh con đường, những vì sao và những cánh chim vừa thực vừa thơ, là chất thơ nảy sinh trên những cung đường bom đạn. thực tế là khốc liệt; mọi thứ đều có thể bị va đập và ném vào buồng lái, những người lính cảm nhận nó bằng tâm hồn trẻ thơ lãng mạn, nhạy cảm với cái đẹp, nghị lực phi thường. hình ảnh “con đường đi thẳng vào lòng người” cũng là một tầm nhìn độc đáo về con đường trượng nghĩa, con đường giải phóng miền nam thống nhất đất nước. những câu thơ trên bộc lộ bộ mặt tinh thần thầm kín của người lính.

Người lính lái xe ô tô được thể hiện với những nét tính cách tuyệt đẹp. họ xuất hiện trong tư thế thoải mái, tự hào, tự tin, kiêu hãnh:

cẩn thận trong cabin, chúng ta ngồi xuống, nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng

hai câu thơ gồm sáu chữ cái với nhịp độ 2/2/2 và từ “ung dung” được đảo ở đầu câu đã làm nổi bật vị trí đó. “Nhìn về phía trước” là con mắt nhìn với sự cương trực, bất khuất, không sợ trời đất, nhìn thẳng vào khó khăn, hy sinh, không sợ hãi, trốn tránh.

Đặc điểm nổi bật của anh là thái độ bất chấp khó khăn, gian khổ, nguy hiểm với tinh thần dũng cảm:

không có kính, đúng vậy, có bột và keo xịt tóc trắng như người già không cần gội đầu, phì phèo điếu thuốc, nhìn nhau cười ha ha. không kính thì có, áo mưa ướt sũng nước mưa như trút nước như ở ngoài không thay đồ, chạy xe trăm cây số trời sẽ tạnh mưa, gió mau khô.

giọng nói hào sảng, bất chấp khó khăn, thể hiện rõ qua cấu trúc lặp lại: “không đeo kính… thì… chưa…” và chi tiết “châm điếu thuốc và tự nhìn mình với nụ cười trên môi. mặt mũi, ha ha. ” “lái thêm trăm cây số” (hàng trăm cây số giữa con đường dài đầy bom đạn, những bậc thang dốc đứng). gió, bụi, mưa, v.v. chúng có thể gây ra nhiều khó khăn, nhưng người lính đã bình thường hóa sự bất thường này và vượt qua nó bằng tất cả nỗ lực và tinh thần trách nhiệm cao. họ chấp nhận khó khăn như một lẽ tất yếu. khó khăn ít nhất không ảnh hưởng đến tinh thần của anh ấy. hình ảnh của cô ấy có vẻ đẹp gồ ghề và lãng mạn.

Những người lính lái xe vẫn là những thanh niên hoạt bát, vui vẻ, lạc quan và rất gắn bó với đồng đội. mặt dính đầy bụi bẩn, nhưng bọn họ: “Không cần rửa, châm điếu thuốc, trên mặt nhìn nhau cười ha ha.” kết quả là thơ ca, tiếng cười của một thế hệ trẻ: sự khốc liệt của chiến tranh đã tạo ra những đội xe không kính. họ có thể bắt tay nhau xuyên qua mảnh kính vỡ mà không cần mở cửa xe, một tình bạn thân thiết thoải mái, tự hào và yêu thương. con đường giải phóng miền nam là con đường chính nghĩa, càng đi càng có nhiều bạn: “tìm bạn cùng đường”. tình cảm ấy khăng khít như máu thịt, như anh em trong gia đình: “Ẩm thực có ta tại trời, chung mâm, chung đũa là gia đình”. Định nghĩa về gia đình thật kỳ lạ, hài hước và mang tính tâm linh sâu sắc. những phút sinh hoạt, nghỉ ngơi ngắn ngủi, ăn ngủ tưởng dễ, khó khăn nhưng tâm hồn người lính vui tươi, lạc quan, chẳng phải lo lắng: “võng giăng mắc đường, đi tới đâu, màn trời chiếu đất. xanh hơn “. Cái” lay lắt “là” bấp bênh “nhưng khí phách, nghị lực và ý chí chiến đấu kiên cường, bất khuất, chiến thắng tất cả. Tình bạn thân thiết tiếp thêm sức mạnh để tâm hồn họ rộng mở, lạc quan.” một lần nữa “thông điệp khẳng định đoàn xe đang tiến bước vững chắc, khẩn trương và kiên cường. Hình ảnh” bầu trời xanh hơn “gợi lên tâm hồn lạc quan, hy vọng và khát vọng của những người lính.

động lực mạnh mẽ và sâu sắc tạo nên một nghị lực phi thường, bất chấp mọi hiểm nguy, mọi sự tàn phá khốc liệt ấy của người lính lái xe đó chính là ý chí chiến đấu giải phóng miền nam ruột thịt, đó là tình yêu nước nóng của tuổi trẻ. khổ thơ cuối tạo nên một kết cấu tương phản bất ngờ nhưng sâu sắc: sự đối lập giữa hai phương diện vật chất và tinh thần, giữa ngoại thất và nội thất của những chiếc xe. những chiếc xe bị bom đạn biến dạng trơ ​​trọi: “không kính, xe không đèn – không mui, thùng xe trầy xước”. nhưng điều kỳ lạ là những chiếc xe trần trụi ấy vẫn ra chiến trường. tác giả giải thích một cách bất ngờ và chí lý: “chừng nào trong xe còn có trái tim.” cả chiếc xe có thể không còn nguyên vẹn, chỉ có: trái tim người lính còn nguyên vẹn: trái tim miền Nam, chiếc xe vẫn lao động “tất cả vì tiền tuyến”. Không chỉ sự ngoan cường, dũng cảm, vượt qua mọi nghịch cảnh, ác liệt mà chính sức mạnh của trái tim yêu nước ấy đã khiến chiếc xe trở thành vật thể sống gắn bó với người lái xe, không gì có thể phá hủy, bẻ gãy, ngăn cản được. chiếc xe chạy bằng cả trái tim và máu của những người lính anh hùng. trái tim đó nuôi dưỡng niềm tin, sự lạc quan và sức mạnh để chiến thắng. điều đó làm cho những chiếc xe thậm chí còn độc đáo hơn. bởi vì đó là những chiếc xe được điều khiển bởi trái tim.

Bài thơ đã tạc nên một hình ảnh đẹp đẽ, dũng cảm, khí phách, đầy ngạo nghễ trong cái nhìn giản dị nhất của người lính lái xe nơi trường núi thời chống Mỹ. đó cũng là hình ảnh của người lính Việt Nam, của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống lại chúng ta.

Ngôn ngữ và giọng điệu của bài thơ cũng là những sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Phạm Tiến Duật, giúp khắc họa hình ảnh người lính lái xe.

Ngôn ngữ của bài thơ giản dị mà tràn đầy sức sống – cuộc sống chiến trường làm giàu chất thơ và thể hiện chân thực hình ảnh người lính lái xe. lời ca gần với phong cách văn xuôi, đối thoại, lời nói thông thường nhưng vẫn giàu chất thơ. chất thơ toát ra từ những hình ảnh độc đáo, từ dáng vẻ dũng cảm, gan dạ, sôi nổi, trẻ trung của những người lính, từ những ấn tượng, cảm xúc sinh động, cụ thể của họ khi ngồi trên chiếc xe không kính, v.v.

ngôn ngữ đó góp phần tạo nên giọng điệu lanh lảnh, tinh nghịch, phù hợp với đối tượng miêu tả (người lái xe không đeo kính). thể thơ kết hợp linh hoạt giữa thể bảy chữ, tám chữ với những chỗ sáu, mười chữ tạo nên nhịp thơ gần gũi với lối nói tự nhiên, sinh động, góp phần tạo nên chất thơ mới, giọng điệu thơ mới. .anti mỹ. nó bắt nguồn từ tuổi trẻ, trong tâm hồn phơi phới của bao thế hệ chiến sĩ Việt Nam mà chính nhà thơ đã sống và trải qua.

cảm xúc của thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước dựa trên hình tượng người lính trong bài thơ.

Đó là một thế hệ sống đẹp, anh hùng, ý thức sâu sắc sứ mệnh lịch sử của mình, trong gian khổ, hy sinh vẫn hiên ngang, lạc quan. họ “xẻ núi theo núi đi cứu nước mà lòng phơi phới tương lai”, “ra chiến trường như trẩy hội mùa xuân” – “mưa bom, bão đạn”. các thế hệ đời đời vẫn ngưỡng mộ, tự hào, biết ơn họ.

So sánh hình ảnh người lính trong bài thơ này và bài thơ Đồng chí của Chính Hữu. hai bài thơ đã khắc họa hình tượng người lính qua cả hai thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ. đặc điểm chung của họ là lòng yêu nước, dũng cảm, sẵn sàng hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, là thái độ bất chấp mọi khó khăn, gian khổ, hiểm nguy, lạc quan và tình bạn thân thiết. .

nhưng mỗi bài thơ đều thể hiện một người lính với nét riêng. đồng chí thể hiện hình ảnh những người lính hầu hết là nông dân, thân phận nô lệ, nghèo khó nhưng bước vào cuộc kháng chiến với muôn vàn gian khổ, khó khăn. cuộc cách mạng là cuộc giải phóng khỏi số phận khốn khổ và tăm tối của nó. trong khi thế hệ trẻ thời chống Mỹ ra trận với ý thức giác ngộ về độc lập, tự do gắn liền với chủ nghĩa xã hội, ý thức trách nhiệm sâu sắc với thế hệ mình. họ sống sôi nổi, tươi trẻ, yêu đời, lạc quan, tự tin. hình ảnh của anh ta được thể hiện trong một thời điểm quyết liệt hơn, khẩn cấp hơn. Đó là một thế hệ anh hùng, dũng cảm, mạnh mẽ.

Phân tích bài thơ Về ô vuông không kính – văn mẫu 21

chia sẻ trường sơn để cứu nước, nhưng tấm lòng phơi phới trước tương lai

Ca từ của bài thơ nhắc nhở chúng ta về những năm tháng đấu tranh chống giặc ngoại xâm của những người lính đã hy sinh vì Tổ quốc. thời gian này tuy khó khăn nhưng các chiến sĩ vẫn giữ được tinh thần lạc quan, nhiệt huyết trong cuộc sống và công việc và bài thơ về tiểu đội không kính là một bài thơ như thế. . đó là hình ảnh những chiếc xe không kính, tự nhiên trần trụi nhưng ẩn chứa rất nhiều ý nghĩa. Qua đây, tác giả Phạm Tiến đã cho chúng ta thấy được sự gian khổ và ý chí kiên cường của những người lính nghĩa quân.

không có kính không phải vì xe không có kính. bom và bom rung kính vỡ

mở đầu bài thơ bằng một cuộc trò chuyện nhỏ về cuộc sống ô tô, cũng như trò đùa vui nhộn của người lính với những người thắc mắc về chiếc xe của anh ta. Bom đạn ác liệt tàn phá những chiếc xe vốn còn rất tốt, sau đó các bộ phận của chúng dần biến mất, từng chiếc bị hư hại do sức công phá của bom đạn chiến tranh và trở nên không kính, không mui, không đèn, thùng xe trầy xước không còn nguyên vẹn. . . Hình ảnh những chiếc xe như vậy không còn hiếm mà thậm chí chúng còn cực kỳ phổ biến trong các cuộc kháng chiến. nhưng dù trong hoàn cảnh khó khăn như vậy nhưng hình ảnh những người lính lái những chiếc xe mới lại càng nổi bật hơn.

ngồi trong buồng lái, ta ngồi nhìn đất, nhìn trời, thấy gió lùa vào, dụi mắt cay cay, thấy con đường đi thẳng vào tim

câu thơ tự do nhanh hơn một chút nhưng khiến người đọc có cảm giác như đang ngồi trên cùng một chiếc xe để ngắm nhìn mọi thứ xung quanh. Tất cả những điều mà chúng tôi nghĩ là khó khăn đã trở thành lợi thế, có thể nhìn ra thế giới một cách tự do không bị giới hạn, có thể có được cảm giác tự do mà một người lính mới hiếm khi có thể cảm nhận được, bất chấp mọi khó khăn và gian khổ đang ở phía trước.

không có kính thì có, có bụi và keo xịt tóc trắng như người hoặc khi: không có kính, có thì ướt áo mưa và mưa như trút nước

Những điều này khiến họ hạnh phúc hơn bao giờ hết, giống như một gia vị của cuộc sống và hiếm khi được trải nghiệm.

ô tô bị ném bom trở về. Tôi đến đây để gặp gỡ bạn bè trên đường đi. Tôi bắt tay qua mảnh kính vỡ

Vậy đó, những người lính trẻ dù ở hoàn cảnh nào vẫn có một tâm hồn trẻ trung. họ vẫn tin tưởng vào tương lai của đất nước, nơi mà tình đồng nghiệp luôn được mọi người quan tâm và coi trọng.

Dù sao, với giọng văn trẻ trung và một tâm hồn đẹp, bài thơ đã thổi luồng gió mới, khiến chúng ta càng biết ơn những người lính đã chiến đấu vì Tổ quốc.

Nguồn: https://truongxaydunghcm.edu.vn
Danh mục: Kiến thức

Related Articles

Back to top button