Trọn Bộ Bài Nghị Luận Văn Học &quotTRUYỆN KIỀU&quot NGUYỄN DU Lớp 9

Nghị luận về tác phẩm truyện kiều

Các dạng bài văn mẫu và truyện ngắn của tác giả kiều nguyên du lớp 9 chuẩn bị cho kì thi vào lớp 10 dễ dàng và đầy đủ theo hệ thống bài tập và tự học chi tiết.

trong phần nghị luận văn học “kiều kiều” lớp 9

đề 1: phân tích vẻ đẹp và tài năng của nàng thuỷ chung qua bài thơ Chị em thuỷ chung.

Có thể nói, đoạn thơ được trích ở phần mở đầu Truyện Kiều là một bức chân dung duyên dáng và đẹp đẽ của hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân. bốn câu đầu là lời giới thiệu chung về hai nhân vật xinh đẹp tuyệt trần là hai cô con gái đầu lòng của vua ngoại. những hình ảnh tượng trưng kết hợp với ẩn dụ là những biện pháp tu từ trong thơ ca, văn học cổ cho ta thấy vẻ đẹp của hai chị em thủy chung thật là thanh tao, thuần khiết như tuyết của thiên nhiên. những cô gái mới lớn này đã được nguyen du giới thiệu một cách ngắn gọn nhưng đầy trân trọng:

tính cách xương, tuyết linh, mỗi người nhìn mười tuổi rưỡi. chúng đẹp từ bên ngoài vào trong.

sau phần giới thiệu chung có một bức chân dung của cô ấy. Vẫn sử dụng lối thư pháp thông thường kết hợp với hệ thống chữ chọn lọc, bốn câu thơ tiếp theo như vẽ ra trước mắt chúng ta hình ảnh một thiếu nữ trong sáng, hồn nhiên, đoan trang và nhân hậu, dễ hòa nhập với đông đảo công chúng. Đây là vẻ đẹp hoàn hảo của một con người hiền lành, chất phác và vô tư, không một chút bụi trần từ “khuôn trăng”, “nét em” đến nụ cười và giọng nói. nhưng họa sĩ dường như không có nhiều nỗ lực trong việc miêu tả nhân vật này. ngòi bút của ông cũng dành cho nhân vật thủy kiều. nhà thơ tả thuy văn, cho rằng vẻ đẹp của thủy văn không thể hơn thế nữa, rồi thủy chung xuất hiện, thủy chung chỉ là cái nền để tôn lên vẻ đẹp của kiều. chỉ hai câu: càng sắc, kiều càng so tài. như một đòn bẩy, nhà thơ đã nâng nhân vật chính lên một tầm cao lớn cả về tài và sắc trong mắt người đọc. Ở điểm này, tác giả không dừng lại ở hình thức bên ngoài mà đi sâu vào tài năng, tính cách bên trong, sự “mặn mà sắc”, “một non hai bể” của thủy chung.

Nếu trong đó, một vẻ đẹp dịu dàng, đoan trang dễ chinh phục: mây mất nước tóc, tuyết nhường màu da, thì ở phụ nữ hải ngoại vẻ đẹp “sắc sảo mặn mà” dễ gây ghen tị, phẫn uất. gắt gỏng:

“Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”.

Ông bà ta ngày xưa nhận xét về nhan sắc của hai chị em ở nước ngoài, một là “nhan sắc trung dung”, hai là “nhan sắc thánh hiền cũng có lý”. thực ra, vẻ đẹp bên ngoài đã đáng chú ý, nhưng điều đáng quan tâm hơn cả là tài năng và tính cách của nhân vật. tác giả đã sử dụng nhiều cụm từ kiến ​​trúc một cách tiểu tiết để đưa tài năng và vẻ đẹp của thủy kiều lên mức phê bình:

xương nhạc / tuyết linh mây rụng tóc / tuyết cho màu da mùa thu / nét xuân vẽ hoa ghen thua thắm / liễu hờn kém xanh nên đành đặt một / tài vẽ hai.

Chưa hết, nguyễn du còn không tiếc lời ca ngợi nàng bằng hàng loạt mỹ từ thể hiện một giá trị tuyệt đối: “thông minh vốn có” “dung mạo bách hợp, đủ mùi song”. “thương cung có ngũ âm, nghề tư ăn hồ, lăng”. không xô bồ, từ ngữ và hình ảnh đối lập với nhau và từ ngữ thể hiện giá trị tuyệt đối, thực sự tạo nên nhịp điệu trang trọng, xúc động càng làm tăng thêm tài năng của thủy kiều.

hai vẻ đẹp khác nhau nhưng cùng một phong cách xây dựng. tác giả xây dựng hình tượng nhân vật với những đường cong thuần khiết: nước thu, núi xuân, dáng trăng, nét mặt, tóc mây, da tuyết,… nói nàng là nàng kiều, nhưng bài thơ chỉ là để trình bày ở nước ngoài. với vẻ đẹp sắc sảo, tài hoa nhưng sắc sảo đến mức “ghen ăn tức ở” và “liễu hờn”, đâu mới là tài năng thực sự.

Tóm lại, bài thơ ngắn gọn, bố cục đầy đủ, chặt chẽ, nghệ thuật miêu tả bậc thầy, với bút pháp điêu luyện, thể hiện được thần thái và tính cách của nhân vật, từ ngoại hình, nội dung tâm tư đều bộc lộ, để lại. để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc, đồng thời dự đoán được điều gì sẽ xảy ra với từng nhân vật, cuộc đời của thuy văn sẽ không biết “bão táp” là gì, và cuộc đời của thủy chung chắc chắn sẽ có “phận bạc”, “long đong”. cuộc sống.

đề 2: phân tích hình tượng nàng thuỷ chung qua bài thơ Chị em thuỷ chung, từ đó nêu nhận xét về nghệ thuật tiêu biểu cho con người của Nguyễn Du trong lịch sử thành phố.

tài liệu tham khảo 1:

trong bài thơ “kính gửi ông nguyễn du”, nhà thơ thành huu đã viết:

<3 ngàn năm sau nhớ nguyễn du, ngôn tình như lời ru mẹ tháng ngày… ”.

nguyễn du là thiên tài thơ văn của dân tộc ta. truyện kiều là một kiệt tác của thơ ca cổ dân tộc sáng ngời tinh thần nhân văn. Về nghệ thuật, bài thơ này là một mẫu mực xuất sắc về ngôn ngữ, tả cảnh, tả người, tả tình, tự sự, v.v. vân vân. mang lại cho mọi người nhiều hứng thú với văn học.

bài thơ giới thiệu chị em nhà thủy chung là một trong những bài thơ hay và hay nhất trong “truyện kiều”. Thúy Kiều là nhân vật trung tâm của bài thơ, một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn đã được nhà thơ khắc họa một cách duyên dáng và đẹp đẽ. hai chị em ở nước ngoài mang vẻ đẹp thanh tao, trinh nguyên như “mai”, như “tuyết”, mỗi người mang một vẻ đẹp riêng, hoàn hảo, hoàn hảo:

<3

vẻ đẹp của thùy vân là vẻ đẹp của một thiếu nữ rất quý phái, “đoan trang”, “đoan trang khác người”: khuôn mặt “đầy đặn” sáng như trăng, mắt phượng, môi cười tươi như hoa, giọng nói trong trẻo như ngọc. Điều gì có thể đẹp hơn mái tóc và màu da của cô ấy? – “tuyết rơi mất màu tóc mây nhường chỗ cho màu da”. nhà thơ đã sử dụng những ước lệ tượng trưng để gợi tả vẻ đẹp mỹ miều, tạo nên những hình ảnh ẩn dụ gợi cảm. tả thúy văn trước, tả thúy kiều sau là một dụng ý nghệ thuật của nguyễn du nhằm khẳng định kiều diễm là một vẻ đẹp tuyệt trần:

“Kiều sắc sảo mặn mà so với bề ngoài tài hoa hơn”. Thủy kiều có gương mặt đẹp “nghiêng nước nghiêng thành”.

đôi mắt đẹp như làn nước mùa thu, lông mày thanh tú và xinh xắn như hình núi mùa xuân; một vẻ đẹp xanh tươi khiến “hoa dại mất, liễu kém xanh”. phong cách sáng tác riêng của nhà thơ rất đa dạng, phong phú: kết hợp kì diệu các biện pháp nghệ thuật ẩn dụ, nhân hoá, thậm chí là sử dụng nhuần nhuyễn các chất liệu thơ cổ (thiên về hoán dụ) để tạo nên những vần thơ có vẻ đẹp gợi cảm. hình bóng của người đẹp được phác thảo bằng hai ba dòng phá vỡ quy ước nhưng rất duyên dáng, để lại cho người đọc nhiều cảm xúc và sự trân trọng: mùa thu non nước, bức tranh mùa xuân.

Xem thêm: Giăng sáng: Níu giữ mộng văn chương giữa cảnh đời khốn khó

ghen ăn tức ở, liễu hận xanh nghiêng nước nghiêng thành. là kết quả của chế độ ưu đãi dành cho người Việt Nam ở nước ngoài, tất cả đều “xinh đẹp phải đòi một, tài phải thu hút hai”. thông minh bẩm sinh “trời cho”, tài năng xuất chúng: có tài làm thơ, vẽ đẹp, đàn giỏi: nghệ thuật nào cũng xuất sắc, cũng trở thành một “thiên kim”, “phá bĩnh” thiên hạ:

“Bản chất thông minh là bẩm sinh, trộn lẫn với thơ và họa, đủ mùi bài hát. cung thất hương, lầu ngũ âm, nghề tư ăn ở hồ chương ”.

nguyễn du đã không tiếc lời ca ngợi thủy chung bằng một loạt từ ngữ biểu thị giá trị tuyệt đối: vốn dĩ tự nhiên, hỗn với nghề, đầy hương… thổ… nghiệp riêng hư…

Khi miêu tả tài năng của nàng, nhà thơ không chỉ nói đến sự cao cả của hiện tại mà còn hàm ý dự báo về tương lai của nàng. vẻ đẹp mê hồn “hoa ghen… liễu hờn… ăn theo bài“ bạc mệnh ”do chính nàng sáng tác“ ngày càng khắc khoải ”từ đó gợi lên trong tâm hồn ta một nỗi ám ảnh định mệnh mà nhà thơ đã khẳng định:“ trời xanh , thói má hồng hờn ghen “, …” chữ tài gắn với chữ tai một vần “, … gần hai thế kỷ nay, chân dung mỹ nhân này qua thơ văn của chị em thủy kiều hà. đã để lại trong lòng bao người, hàng triệu người Việt Nam một tình cảm nồng hậu, một niềm kính phục đối với người con gái đầu lòng của vua. đó mới là tài năng đích thực của Nguyễn Du trong nghệ thuật đại diện cho nhân dân.

đức hạnh là gốc của con người. thủy kiều không chỉ có tài mà còn có đức. anh ta nhận được một nền giáo dục trong khuôn khổ của lễ nghi, của gia đình. tuy sống trong cảnh “hồng nhan bạc mệnh”, đã đến ngày “cuối tuần” nhưng cô là một thiếu nữ có văn hóa và phẩm hạnh:

<3

nói ngắn gọn, thủy kiều là một nhân vật xinh đẹp trong “trường tân thanh”. Đại thi hào Nguyễn Du với cảm hứng nhân đạo và tài năng thơ ca tuyệt vời đã miêu tả Thúy Kiều trong những bài thơ lục bát hay nhất và dành cho nhân vật nhiều tình cảm, sự trân trọng sâu sắc. sự kết hợp tài tình giữa các ước lệ tượng trưng, ​​sử dụng sáng tạo các phép tu từ, đặc biệt là ẩn dụ so sánh, một ngôn ngữ thơ tinh tế, súc tích, giàu tính biểu tượng và sức gợi để khắc họa nên vẻ đẹp thơ sáng nhất của nền văn học cổ nước nhà. Thủy kiều có “xuất thân” ngoại lai, nhưng dưới ngòi bút thiên tài của thi hào Nguyễn Du hiện lên với bao phẩm chất tốt đẹp, đậm đà bản sắc dân tộc, vẻ đẹp nhân văn toát lên từ hình tượng Thủy kiều chính là nét đẹp văn chương của vùng đất này. bài thơ.

đề 3: cảm nhận của em về hình ảnh ngày xuân trong truyện Kiều

Xem Thêm : Phân tích bài thơ Cảm xúc mùa thu hay nhất (7 mẫu) – Văn 10

Trang thơ của nguyễn du mở rộng ra trước mắt chúng ta. Nó không phải như thế này? phía sau chân dung mỹ nữ là bức tranh phong cảnh mùa xuân tiết thanh minh và cảnh du xuân của đôi trai tài gái sắc, của các chị em thủy chung. Đoạn thơ “Cảnh ngày xuân” gồm 18 câu, từ dòng 39 đến dòng 56 của “Truyện Kiều” tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật tả cảnh và tả tình của thi hào Nguyễn Du. một vẻ đẹp trẻ trung, một niềm vui rộn ràng, xao xuyến cứ lớn dần, lan tỏa, rồi lắng đọng mãi trong lòng chúng ta khi đọc câu thơ này.

Bốn dòng đầu mở ra một không gian nghệ thuật đầy màu sắc, hương thơm, mê hoặc và thơ mộng. giữa bầu trời bao la có những cánh én bay từ bên này sang bên kia như những “con thoi”. những cánh én mùa xuân thân thiết biết bao. hai từ “câm lặng” thật gợi hình và gợi cảm. cánh én giống như những con ruồi bay ngang, bay lượn, chao lượn; thời gian trôi nhanh, thanh xuân qua nhanh.

modiscos – câu tục ngữ: “thời gian phù du như ngựa chạy, như nước chảy qua cầu” đã đi vào hồn thơ từ bao giờ? sau cánh én “thoi đưa” là ánh xuân, là “ánh sáng” của mùa xuân khi chín mươi mới hơn sáu mươi ”. Cách nhà thơ nhìn nhận thời gian và miêu tả vẻ đẹp mùa xuân xưa thật hay và thú vị, là cảnh “xuân về già” (Ức trai), là cảnh mưa bụi, là tiếng chim hót trong đám tang thi.

cái gì là rung động của con bướm trong thơ của trần nhân tông? còn được gọi là “xuân hồng” (xuân diệu), “xuân chín” (han mac tu), v.v … với nguyễn du khi mùa xuân đã bước sang tháng ba. “quang thiêu đã hơn sáu mươi chín thập kỷ.” hai chữ “thiều quang” gợi lên màu hồng của ánh xuân, hơi ấm của khí xuân, bao la của đất trời.

đó còn là màu “xanh” dịu dàng và ngọt ngào của cỏ non trải dài, trải dài như tấm thảm “hướng về phía chân trời”. đó là màu trong trẻo, thuần khiết “trắng ngần” của bông hoa lê lác đác vừa hé lộ, tỏa hương thơm của “mấy bông hoa”:

“cỏ xanh đến tận chân trời, cành lê trắng với một số bông hoa.”

Thơ cổ Trung Quốc được đánh giá là vận dụng sáng tạo: “phương pháp liên hoa – lê chi sách hoa”. hai chữ “đốm trắng” là nhãn, hình thức điểm xuyết của thơ cổ gợi vẻ đẹp tươi trẻ của thiên nhiên, cỏ cây hoa lá: phong cách nghệ thuật điêu luyện: trên nền xanh của cỏ non, vài hàng lê “điểm trắng”. giữa mặt và điểm, giữa nền xanh và màu trắng của cảnh vật mùa xuân là những cánh én “bay thoi đưa”, màu hồng của ánh sáng, là khát vọng xuân ngây ngất, say đắm lòng người. >

cảnh xuân là hình ảnh mùa xuân lộng lẫy, là áng thơ tuyệt tác của cụ nguyễn du để lại cho đời, tô điểm cho cuộc đời mỗi chúng ta. nhà thơ che lan viên có lẽ đã học tốt để viết nên bài thơ xuân hay này:

“Tháng Giêng và tháng Hai xanh tươi cỏ đồi, ngày 2 tháng Giêng bay trên cánh én…”? (suy nghĩ mùa xuân)

Tám câu thơ sau đây tả cảnh lễ hội mùa xuân: “hội là lăng, hội là đạp” trong tiết tháng ba. sự lặp lại; “Bữa tiệc là… bữa tiệc là…” gợi lên khung cảnh của những lễ hội phổ biến đã diễn ra qua nhiều thế hệ: “Tháng Giêng là tháng của niềm vui-Tháng Hai của trò chơi, Tháng Ba là bữa tiệc” (các bài hát). khung cảnh đông vui, tưng bừng, huyên náo. trên những con đường “xa gần”, dòng người tấp nập lăn bánh. có biết bao nhiêu “cánh én” ăn mừng trong niềm vui “xúc động”, kích thích, thôi thúc. có nhiều tài tử, mỹ nhân “sánh vai” sánh vai, chân ướt chân ráo. dòng người đến dự tiệc đông nghịt ngựa xe lăn bánh “như nước”, quần áo đẹp, màu sắc rực rỡ, hàng nghìn người, chật kín đường phố “chật như nêm”. các từ láy: “náo nức”, “én liệng”, các ẩn dụ so sánh (như nước, như nêm) đã gợi tả không khí lễ hội tưng bừng của mùa xuân diễn ra trên mọi miền đất nước. trẻ đẹp, sang trọng và giàu có: “tài tử tuấn tú, ngựa xe như nước, áo quần như nêm”.

Trong dàn fan hâm mộ mỹ nhân “nức tiếng gần xa”, có ba chị em ở nước ngoài. dòng “chị em sắm sửa đi dạo xuân” tôi vừa đọc có vẻ chỉ là quảng cáo. nhưng sâu xa hơn là chất chứa bao cảm xúc: chờ mong, ngày tảo mộ, trẩy hội bước lên thanh xuân du xuân trong những bộ quần áo đẹp đã được chuẩn bị sẵn, được “sắm sửa”… biết bao “bóng hồng”. . xuất hiện trong những diễn viên đẹp trai? Ai đã từng đến với lễ hội chùa hương, hội Lim, lễ hội Yên Tử … sẽ cảm nhận được vẻ đẹp, niềm vui, sự phấn khởi và sức trẻ ở lễ hội đạp xe mà cụ Nguyễn Du đã nói đến. /.

thơ là nghệ thuật của ngôn từ. từ ghép: “én / anh”, chị / em “,” tài / tử “,” gia / nhân “,” ngựa / xe “,” áo / quần “(danh từ);” gần / xa “,” gần / nức nở “,” sắm sửa “,” dập dìu “(tính từ, động từ) được nhà thơ sử dụng với sự chọn lọc tinh tế, làm sống lại không khí trẩy hội mùa xuân, một nét đẹp của nền văn hóa lâu đời phương đông, xứ sở Trung Hoa, xứ sở. Việt Nam của chúng ta và lối sống “giàu có” của phụ nữ nước ngoài.

“rải rác / chất đống. thoi vàng rải rác / tro bay tiền giấy. ”

nguyễn du đã nói về đời sống tâm linh, phong tục dân gian truyền thống và lễ bỏ mả được nhiều người đồng tình và tham gia. cõi âm dương, người sống và người chết, hiện tại và quá khứ cùng tồn tại trong những gò đất “loạn lạc” trong lễ chôn cất. một trái tim thánh thiện, niềm tin dân gian đầy ắp tình yêu thương. Người hâm mộ hải ngoại, mỹ nhân và ba chị em không chỉ cầu nguyện cho các vong linh mà còn bày tỏ niềm tin và sự mong mỏi về một tương lai hạnh phúc của tuổi trẻ khi xuân về. Vậy nên, sau hai trăm năm, suy nghĩ của mỗi chúng ta ít nhiều đã thay đổi trước cảnh “tiền vàng rơi vãi, tiền giấy tro bụi bay”, nhưng giá trị nhân văn của thơ Nguyễn Du vẫn khiến chúng ta xúc động!

Sáu dòng cuối của đoạn văn ghi lại cảnh chị em ở nước ngoài tảo mộ dần về quê hương. mặt trời có “ác quỷ” canh giữ ngọn núi. lễ hội, những ngày vui đã qua nhanh chóng:

Xem thêm: Đại cáo Bình Ngô (Bình ngô đại cáo) – nội dung, dàn ý phân tích, bố cục, tóm tắt | Ngữ văn lớp 10

“ác quỷ, bóng ngả về tây, chị em lang thang mà đi”

tại sao không buồn? cuối ngày tại sao không buồn? tốc độ chậm nhịp độ cuộc sống dường như dừng lại. tâm trạng thì “réo rắt”, điệu bộ “bảnh bao”, bước đi “rón rén”. một cái nhìn nam tính và u sầu: “lượt xem” … cho từng cảnh. chúng đều nhỏ, khe núi chỉ đơn giản là “tieu khe”. cảnh quan “sủa”. tia nước đang “rì rào”. có dịp cây cầu “nhỏ” bắc qua cuối ghềnh. cả không gian tĩnh lặng và yên tĩnh. cảm xúc của chị em hải ngoại như dịu lại dưới bóng tà dương. giống như chờ đợi một cái gì đó đến, họ sẽ nhìn thấy nó? mắt cứ “dõi theo” xa gần:

<3

các từ tượng hình: “thanh thanh”, “đìu hiu”, “nhỏ nhoi” gợi sự mờ ảo của cảnh và sự rung động của tâm hồn cái đẹp khi trẩy hội, kết thúc ngày tàn. cảm giác xót xa thấm thía và lan tỏa trong tâm hồn đa cảm và vẻ đẹp đa cảm. phong cảnh và thời gian được miêu tả bằng những ước lệ tượng trưng nhưng rất sinh động, gần gũi và thân thuộc với bất kỳ người Việt Nam nào. Điều đó không còn xa lạ nữa, vì ngọn đồi nhỏ ấy, cơ hội cầu nguyện nhỏ bé ấy chính là màu sắc của đồng quê, của cảnh sắc quê ta. dân tộc là một nét đẹp đậm nét trong thơ Nguyễn Du, đặc biệt là trong những bài thơ tả cảnh hữu tình kỳ thú.

nhà thơ xuan dieu từng viết: “ôi xuân hồng, anh muốn cắn em”. trong “mười hai đã mất”, vu bang không kìm được cảm xúc mà phải thốt lên: “mùa xuân của tôi… mùa xuân thiêng liêng của tôi… đẹp quá, mùa xuân thân yêu của Hà Nội…, của người Việt Bắc thân yêu .. . ”. và chúng tôi muốn nói thêm: “Mùa xuân của đất nước thân yêu mới đẹp làm sao! thật hạnh phúc, thật tươi trẻ và đẹp đẽ, cảnh xuân, cảnh hội xuân trong “truyện kiều”. mùa xuân mang đến cho chúng ta nhiều điều ước. xuân sắc, xuân tình như hoa nở, thơm ngát trong lòng ta. Xin chào quý bà con hải ngoại gần xa, quý vị đã nghe nhạc vàng của người đàn ông trong hội xuân đẹp từ xa vọng về chưa? …

chủ đề 3: toàn cảnh giải thích trong khoảng thời gian tháng 3.

một chuyến du xuân: đây là sự kiện mở đầu cho quãng đời thanh xuân giàu đẹp của thủy kiều. cuộc du xuân mở đầu phần đầu tiên trong hệ thống ba sự kiện thường gặp của cốt truyện kinh điển: “gặp gỡ – tai nạn – đoàn tụ”. Chúng ta sẽ tìm thấy trong câu thơ này một hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp và tươi đẹp và một lễ hội đạp xe tưng bừng. nhưng cũng chính ở phần “đoàn tụ” thường sẽ không có dấu hiệu tai họa: có mồ, có sống và cảm nhận xưa cũ mang màu sắc bi thương về số phận hồng nhan bạc mệnh.

đầu dòng thứ hai của đoạn văn có thể làm nảy sinh một liên tưởng, một ấn tượng nào đó về sự trường tồn. nhưng chủ yếu cả sáu câu thơ đầu là bức tranh thiên nhiên với ánh sáng rực rỡ và màu sắc trong veo của bầu trời “trong vắt”, của đàn cò bay từ bờ này sang bờ khác uyển chuyển, nhịp nhàng. cỏ xanh mướt. và từ một cành lê mỏng manh “trắng ngần điểm vài bông” … người trong tiết thanh minh đi tu sửa mồ mả tìm đến. bóng của quá khứ – đó là nghi lễ truyền thống. Nguyễn Du đã thể hiện tài năng ngôn ngữ điêu luyện của mình trong một bài thơ ngắn tự sự về một sinh hoạt chung: Lễ tảo mộ, hội đạp xe. các nghi lễ trong hội hè có thể có mối quan hệ mật thiết với nhau, nhưng chúng vẫn là hai hình thức sinh hoạt văn hóa khác nhau: hội đạp thanh là cuộc vui trên thảm cỏ xanh của thời xuân xanh … hội đạp thanh là cuộc sống hiện tại. và có thể nhìn những sợi tơ hồng của tương lai … trong tiết thanh minh là những hồi ức, hồi tưởng về quá khứ (lễ tảo mộ) nhưng cũng có những khát khao, khao khát hướng về phía trước của cuộc đời (“hội là đạp “).

sau câu thơ mở đầu là một hình ảnh đẹp đẽ, tươi sáng “lấy cảm hứng từ thiên nhiên”, vẫn chỉ là nét vẽ bằng bút chì, nhưng chủ yếu nhà thơ sử dụng từ ngữ dân tộc (kể cả những câu thơ có thể gọi là “thuần du”), đã những đường nét, hình ảnh, màu sắc được chọn lọc để đưa vào một tổng thể cấu trúc bức tranh hài hòa giữa nền màu bầu trời và những cánh én màu đậm, sắc nét giữa những cành lê trắng tinh trên nền cỏ đẹp mùa xuân.

khi đó, hình ảnh thiên nhiên là ngôn ngữ trần thuật về quang cảnh lễ hội. hệ thống danh từ kép và động từ: xa gần, yên anh, chị em, người hâm mộ, người đẹp … lo lắng, mua sắm, chật vật, ngổn ngang, diễn tả cảnh sinh hoạt nhộn nhịp, nhộn nhịp, vui tươi của người dân và đây lại là dòng những thanh niên “mỹ nam, mỹ nữ” với xe ngựa, trang phục chen chúc, chen chúc … lễ viếng mộ tưng bừng, náo nhiệt xen kẽ giữa thanh xuân sum họp đã hoàn thiện bức tranh xuân khi cỏ cây hoa lá còn rực rỡ. xanh, khi không khí và ánh sáng trở nên trong và ấm hơn.

Dường như ánh sáng của mùa xuân, sự cổ vũ của lễ hội đang bao trùm khắp thế giới (bao gồm cả ba anh em họ vua). Thông qua hoạt động du xuân của chị em Thuý Kiều, Nguyễn Du đã khắc hoạ truyền thống văn hoá lễ hội xưa và nếp sống của những người họ Vương.

thời gian trôi qua, bóng dương chênh vênh cuối chiều. “bóng ác ngả về tây”. mà đây không chỉ là hoàng hôn của cảnh vật, dường như con người ta còn đắm chìm trong cảm xúc hoài cổ khó tả. trong văn học trung đại, cảnh mặt trời lặn thường gợi liên tưởng đến nỗi nhớ nhung, khao khát, hay sự tàn tạ ảm đạm. cuộc du xuân vãn cảnh đã qua, trẩy hội tưng bừng… tâm hồn con người dường như cũng “thay đổi” theo sự thay đổi của thời gian và cuối cuộc xuôi mang theo chút sầu muộn cho muôn dặm đường về. Thời gian và tâm trạng ấy báo hiệu một sự thay đổi không gian, chỉ có ba hình ảnh để tả cảnh: con suối nhỏ, cây cầu nhỏ và ngôi mộ nhỏ… vẫn chỉ là đầu lông đuôi lọt qua sáu câu thơ. đối lập với “sự đông đúc, náo nhiệt của cảnh lễ hội trên kia” là không gian hiu quạnh với con lạch nhỏ hiền hòa, con lạch đáng thương chỉ cần “căng một chút”. vượt qua đủ để người ta băng qua … tả con lạch hay tả sự xôn xao của lòng người? dường như không có biên giới giữa cảnh vật và lòng người… hơn nữa, nguyễn du sử dụng các trạng từ kép: “sè sè, rao…” nấm đất nhỏ bé gợi lên hình ảnh một số phận nhỏ bé. còn cỏ cây ở đây thôi không có màu “xanh đến tận chân trời” như trên mà phủ một màu vàng úa héo úa, ủ rũ… đạt được màu sắc của cảnh vật nhưng đồng thời cũng bộc lộ được tâm trạng của con người.

cảnh hoàng hôn báo hiệu cuối ngày đối lập với thiên nhiên trong sáng, một ngôi mộ hiu quạnh trái ngược với lễ mộ đông đúc nhộn nhịp … một hình ảnh tương phản khiến người gợi cảm phải thốt lên ngạc nhiên. câu hỏi (rằng: “tại sao ở lớp thanh minh mà hương khói ở đây vắng tanh) khung cảnh hoang tàn, ảm đạm đó thể hiện một câu chuyện bi thảm về một con người, một cuộc đời và một cái kết bị người đời lãng quên …

đề 4: phân tích đoạn thơ Kiều lầu đầu tường truyện chữ kiều của nguyễn du

Bài thơ 22 câu “kiều trên lầu đầu tường” được trích dẫn trong “văn tự sự” là “những cụm từ về nỗi đau của tình yêu” (tou huu). nhiều chuyện khủng khiếp xảy ra: tai ương, tai bay vạ gió, cha và em trai bị tù đày, tài sản bị kẻ “đầu trâu mặt ngựa” oan ức cướp đi, phải bán mình chuộc cha, đánh đổi tình nghĩa. đối với mình, kiều rơi vào tay mã sinh – tu ba. Sau khi bị “mã tấu” làm mất, bị mẹ làm nhục, Kiều đã tự tử nhưng được cứu sống. bạn ba thuyết phục người nước ngoài:

“những người còn lại vẫn ở đó, hãy tìm một nơi xứng đáng là trẻ em…”.

Xem Thêm : Top 05 tác phẩm nổi tiếng nhất của Vincent Van Gogh

phu nhân đưa kieu xuống đất ngăn tường với lời hứa “cứ từ từ”, nhưng thực tế lại bị hắn quản thúc. lầu biếc cô đặc là điểm dừng chân của Thủy kiều trên con đường lưu lạc đầy nước mắt, cay đắng và tủi nhục suốt 15 năm.

Đoạn thơ không chỉ thể hiện nỗi niềm xót xa của Nguyễn Du đối với những mảnh đời bất hạnh mà còn thể hiện một phong cách nghệ thuật kể chuyện độc đáo. về cách thể hiện cảnh ngụ ngôn, về ngôn ngữ độc thoại để thể hiện nỗi lòng và tâm trạng của nhân vật thủy kiều.

Sáu câu đầu của đoạn văn là một không gian nghệ thuật đồng thời là một tâm trạng nghệ thuật. nó là “xa” và “gần mặt trăng”: có “cồn cát vàng đó” và “bông hồng đằng kia”. Giữa thiên nhiên tĩnh lặng, bao la, không một bóng người, Kiều chỉ biết “thiên thu mênh mông”. một cảm giác cô đơn. buồn và tủi nhục trước thân phận, số phận của mình. trước mắt chỉ có cái bóng “mây đèn chiều tà”, lòng người con gái lang thang đau khổ, tủi nhục và chán chường vô cùng:

“Sáng sớm và đêm khuya ngượng ngùng, nửa yêu nửa thích.”

bốn từ “như chia cắt trái tim” mô tả một cảm giác, một trái tim tan vỡ và đau đớn. Vì vậy, dù sống giữa khung cảnh đẹp đẽ, thanh bình, có núi xa, có trăng gần, nhưng nàng vẫn thấy cô đơn và tủi nhục, bởi “một người buồn thì chẳng bao giờ vui”. Tại sao anh ta không thể ở một mình và bẽ bàng trong hoàn cảnh bi đát: “xung quanh nước non, tôi đau lòng, vì vậy tôi bị mất cho một số cụm từ”

8 dòng tiếp theo thể hiện nỗi nhớ người yêu và nỗi buồn của cha mẹ Thúy Kiều khi cô ấy sống một mình dưới tầng hầm. với kim loại quý, hãy nghĩ đến con người. với cha mẹ, anh đã “thương nhớ…” mỗi đối tượng ở nước ngoài đều có nỗi nhớ riêng. trên đường đi theo mã của giấy khai sinh trong lâm nghiệp. Kim jong-un cô đơn, đau khổ, “một trời một thu, một người”. đối với các bậc cha mẹ ngoại quốc, “nghe tiếng chim như nhớ lòng trời”. giờ này, kiều nhớ kim, chàng nhớ những lời thề non hẹn biển đêm tình “dưới trăng chén đồng”, thương người đau khổ “đợi ngày mai”, “lẻ loi” một mình buồn tủi. bao lâu mới nguôi ngoai và “phai nhạt” nỗi nhớ ấy? những từ ngữ, hình ảnh chỉ sự ngăn cách của không gian và thời gian như: “dưới trăng chén đồng“ tin sương ”,“ nay đợi mai ”,“ góc trời ”,“ rửa son .. . “đã diễn tả và xúc động sâu sắc tình cảm khao khát người yêu trong mối tình đầu, nay vì hoàn cảnh mà chia ly đau đớn:

“Bức tường con người dưới vương miện của mặt trăng tin vào sương mù và chờ đợi tương lai. trên trời, góc bể phòng bị, vết son tẩy không bao giờ phai ”

Xem thêm: Soạn bài Kiểm tra thơ và truyện hiện đại | Soạn văn 9 hay nhất

các động từ – vị ngữ: “nghĩ”, “nhìn”, “chờ”, “chờ”, “sạch”, “phai” đã được liên kết trong một hệ thống đơn ngữ biểu hiện nội tâm của nhân vật trữ tình. hải ngoại nhớ người yêu không nguôi, tiếc cho tình yêu đã tan vỡ bởi một lời thề bền chặt! nhớ kim rồi về báo hiếu với bố mẹ. các từ ngữ chỉ thời gian xa nhau: “ngày mai”, “nắng mưa xa cách mấy ngày”, các tài liệu thơ văn, kinh điển văn học Trung Quốc: “sân”, “nguyên tử” và các thành ngữ “quạt sưởi ấm”, đặc hình ảnh người mẹ già “tựa cửa mai chờ mong đứa con trai lưu lạc nơi quê nhà, nơi đã để lại nỗi nhớ mong cha mẹ, nỗi đau của đứa con gái đầu lòng không được, không được chăm sóc cha mẹ, khi cha mẹ già yếu, khi cha mẹ đã được cha mẹ bao bọc. ”

nguyễn du đã sử dụng ngôn ngữ đơn ngữ kết hợp hài hoà giữa phong cách cổ điển và dân tộc, tạo nên những vần thơ giàu sức biểu cảm thể hiện tâm trạng bi thương, tình cảnh bi đát của thuỷ chung. chia lìa “trâm gãy, gương vỡ lại lành” vẫn dành nhiều tình cảm cho “người tình thủy chung” và nhớ “muôn vàn mối tình”. anh là người con hiếu thảo, giàu đức hi sinh, khi cha mẹ già yếu không thể sớm hôm chăm sóc, càng nhớ thương, càng thương. giọng thơ rưng rưng, ​​nỗi đau xa xứ như thấm vào cảnh vật, thời gian và lòng người từ lâu:

<3 ngoài hiên mấy hôm nắng mưa, có khi gốc chết ôm vừa lòng ”

Trong tám câu cuối của đoạn văn, ám chỉ “ánh mắt buồn” xuất hiện bốn lần, được đặt ở đầu dòng 6 của mỗi cặp sáu quãng tám. hai chữ “buồn trông” là cảm xúc chủ đạo của tâm trạng tê tái: đau xót, thương cho mình và người thân, thương cho thân phận và số phận của mình. “Cái nhìn buồn” bởi vì nó trông càng buồn, nó trông càng buồn hơn. đây là bài thơ tả cảnh ngụ tình hay nhất của truyện “Kiều nữ”. mỗi cặp lục bát là một tâm trạng “buồn trông”. môi trường và tâm trạng, khung cảnh thiên nhiên và sự thay đổi tâm trạng của nhân vật được miêu tả thông qua hệ thống hình ảnh và ngôn ngữ khái niệm, mở ra một liên tưởng bi kịch:

“Chiều buồn nhìn cánh cửa nát, ngọn nến xa xa”

cổng bể bơi mênh mông ngày đêm càng làm tăng thêm nỗi cô đơn, buồn tủi của kiếp người lang thang. “con tàu là ai” có lúc ẩn hiện, nay lại là “cánh buồm bay xa” đầy ám ảnh. “Buồn nhìn con tàu” xa lạ, cánh buồm xa “thấp thoáng”, Kiều càng nghĩ đến thân phận cô đơn nơi đất khách quê người.

rồi “buồn bã liếc mắt nhìn“ giọt nước vừa rơi ”, quan sát những cánh hoa trôi và tự hỏi“ về đâu ”, về phương trời nào không biết. những cánh hoa bồng bềnh ấy tượng trưng cho số phận lênh đênh trên dòng đời, chẳng biết đi đâu về đâu, nhìn hoa trôi theo dòng nước mà thấy thương cho thân phận mình: “có rơi nước mới buồn lòng”. trôi dạt biết mình đang đi về đâu ”sau hai câu hỏi tu từ về“ tàu là ai ”, về nơi hoa đăng kiều“ vẻ buồn ”bốn bề,“ chân mây về mặt đất ”hướng về đồng nội. cỏ, anh chỉ thấy trong cái nền xanh xanh mênh mông là màu vàng héo úa, “buồn” của cỏ. Màu u ám ấy phản chiếu nỗi đau tê tái của người con gái bị lạc giữa cánh đồng:

“buồn trông buồn, cỏ ảm đạm, mặt đất xanh, mặt đất cũng xanh.”

“Cỏ nội” héo úa hiện lên trong màu “xanh” mờ nhạt của “mây trên mặt đất” là nỗi băn khoăn của kiều khi nghĩ đến tương lai đen tối và héo úa của mình, màu sắc của cuộc đời mình. thứ cỏ “buồn” đó, cô đã từng nhìn thấy nó trên mộ của cô tiên:

“Nó sẽ giữ mặt đất bên đường, cỏ sẽ kêu nửa vàng, nửa xanh.”

nhìn xa rồi lại nhìn gần, vừa “trông buồn” vừa nghe. nghe thấy tiếng gió, tiếng gió hú, “gió thổi” trên mặt đất. lắng nghe tiếng “sóng ầm ầm”, không phải tiếng sóng ầm ầm mà là tiếng “sóng vỗ rì rào”. gió và sóng bao quanh “.around the seat”. mọi tâm trạng cô đơn đều trải qua hàng giờ sợ hãi, kinh hoàng, lo lắng. Phải chăng tiếng sóng gió dữ dội ấy là biểu tượng cho những tai họa khủng khiếp đang bủa vây, sắp ập xuống số phận của cô bé “bé bỏng” tội nghiệp? kiều “vẻ mặt buồn” mà lo lắng sợ hãi:

“buồn khi nhìn gió thổi vào mặt. Tiếng sóng ấm áp quanh chỗ ngồi.”

hình ảnh “nước non”, tiền cảnh là tòa nhà ngưng tụ, phối cảnh là cảnh con thuyền ra khơi xa xa ở cửa hồ trong một buổi chiều đầu nước và hoa trôi, một nỗi buồn. con cò giữa non xanh, dưới chân trời lồng lộng gió thổi, tiếng sóng vỗ rì rào mang ý nghĩa tượng trưng, ​​giàu giá trị thẩm mĩ. màu sắc đó, âm thanh của thiên nhiên vừa rộng lớn, vừa tăm tối và dữ dội, tất cả dường như bao quanh cô gái đang lạc lối và bị tổn thương bởi nỗi sợ hãi, sợ hãi và cô đơn.

con đường đầy cạm bẫy, nhiều máu và nước mắt, có “ma dẫn đường, quỷ dẫn đường”, dành cho những người đi trước. bài thơ “kiều bên lầu cầu” như rưng rưng. giọt nước mắt của một cô gái lạc lối, đau khổ vì cô đơn. cay đắng buồn cho mối tình đầu tan vỡ, tiếc nuối vì nhớ cha mẹ, sợ hãi cho thân phận và số phận của mình. giọt nước mắt của nhà thơ, một tấm lòng nhân hậu bao dung, đồng cảm với người thiếu nữ tài hoa, hiếu thảo nhưng bất hạnh. các từ láy: “dạt dào”, “bẽ bàng, bơ vơ, chập chờn, xa vắng, man mác, buồn bã, xanh ngắt, tiếng sấm” kết hợp với phép ám chỉ “buồn trông” đã tạo nên một giọng điệu trữ tình đẹp và đậm đà cảm hứng nhân đạo. Đó mới chính là giá trị văn học đích thực của bài thơ theo kiểu lầu son gác tía. ”

<3

câu thơ “kiều bên lầu cầu” thực sự là một hình ảnh xúc động về tình cảm. nguyễn du đã đặt nhân vật thủy kiều trong hoàn cảnh đó để kiều thể hiện tâm trạng của chính mình. lúc này bề ngoài có vẻ an tĩnh thì trong lòng kiều bào lại hỗn loạn, tối tăm. mọi chuyện xảy ra trước đó đều được tái hiện lại, chỉ còn lại cảm giác xót xa, nhớ nhung vô hạn cứ xoáy sâu trong lòng. ngồi trên lầu cao nhìn thẳng là những dãy núi trập trùng, nhìn lên là vầng trăng như sắp chạm đầu, nhìn xuống là những bãi cát vàng trải dài bất tận, lác đác như những “hạt bụi hồng” nhỏ. một không gian bao la, hoang vắng không một bóng người, không một tiếng chim, càng làm sâu sắc thêm cuộc đời cô đơn lẻ bóng của anh lúc này: “trước thềm có suối khóa ……, sự bụi hồng khác “nàng thấy buồn, thấy chán, cũng như lòng nàng:” trống vắng, cô đơn “:” bẽ bàng mây sớm khuya, tình và cảnh như lòng sẻ chia “nàng tự nói với mình. với trái tim của bạn, biết ai để nói chuyện. Trước hết, nàng nhớ về thời vàng son, nhớ về những lời thề non hẹn biển dưới ánh trăng, tưởng tượng ra những sầu muộn, những khát khao đổi thay và tự hứa với lòng sẽ giữ trọn tình yêu chung thủy. có lẽ lúc này đây, cô yêu anh vô cùng, bởi trước khi chia tay họ chưa kịp nói với nhau một lời rồi chợt giận quá: “Tưởng người dưới trăng đồng… trời tan” với cha mẹ của họ, dù cô đã “liều một tấc cỏ, quyết trả ba suối”, cứu cha và em gái mình ra khỏi cảnh tù tội, nhưng lúc này đây cô vẫn cảm thấy xót xa, cảm thấy mình không xứng đáng có con. vì khi cha mẹ già yếu, không lo được cho mình, không được phụng dưỡng: “Thương người mai này ………… ..có lẽ gốc rễ đã ôm mất rồi”. thật đáng buồn biết bao khi phải cam kết không có địa điểm cụ thể. Thật buồn biết bao khi phải xa người yêu mãi mãi. Thật buồn biết bao khi có một người cha, người mẹ không được quan tâm chăm sóc đầu tiên trong sáng. nỗi buồn ấy đang đánh thức trong lòng thủy chung “cuối tuần xuân xanh” một thiếu nữ nhan sắc, tài sắc vẹn toàn, vốn đa cảm, đa cảm. một nỗi buồn mênh mông dường như đè nặng và bao trùm lấy cô. ngẩng đầu nhìn nàng cũng thấy buồn, cảnh vật thay đổi, nhưng cái cũi buồn của nàng đã sửa. cô ấy cảm nhận được điều gì ở phía trước, bởi vì đứa con gái tài năng này của cô ấy giống như một định mệnh không thể tránh khỏi!

từ tâm trạng nhớ người yêu, nhớ cha mẹ, nhưng cuối cùng anh lại trở về hoàn cảnh của chính mình, sống với tâm trạng và trạng thái hiện tại. Mỗi cảnh vật qua ánh mắt, cái nhìn của Kiều đều gợi lên trong tâm trí chàng một nỗi buồn. và càng ngày càng chìm sâu vào nỗi buồn. nỗi buồn sâu lắng của thủy chung được bậc thầy Nguyễn Du làm nổi bật qua cách sử dụng phép liên tưởng ám chỉ rất độc đáo “buồn trông”

… “buồn nhìn cánh cửa vỡ trong chiều tà” “buồn nhìn giọt nước mới rơi” “buồn nhìn cỏ buồn” .. “buồn nhìn gió thổi vào mặt”

cảnh nào trong mắt kiều cũng nhuốm một nỗi buồn khó tả, cũng có trời nước mà mây nhẹ, dòng nước cuốn trôi hoa rụng. cùng với gió và sóng, nhưng “gió”, “sóng” giữa mênh mông biển trời, lại vào lúc chạng vạng, cô chỉ còn đủ sức để nhận ra một con thuyền, một căn phòng thấp thoáng trong khoảng cách. những cánh buồm thấp thoáng xa xa ”. mỗi cảnh vật như gợi lên một nỗi buồn riêng liên quan đến tâm trạng chán chường về cuộc đời, về số phận của mỗi người. , cảnh “hoa chảy nước rơi” gợi cho anh ta một cuộc đời lang thang, một cuộc đời vô định, không phương hướng. Càng về cuối, nỗi buồn gần như đã lên đến đỉnh điểm:

“buồn khi nhìn gió thổi vào mặt mình tiếng sóng vỗ trên ghế”

sấm sét ầm ầm, vây quanh bốn phía dữ dội như muốn quét sạch thân phận nhỏ bé bất cứ lúc nào. Tôi nghĩ bạn có thể ngất đi vì âm thanh khủng khiếp đó. đúng như nguyễn du đã viết: “cảnh buồn chẳng vui bao giờ”. Qua điệp khúc “dáng buồn …” của kiều, chúng ta có thể cảm nhận được nỗi đau mà anh đã phải trải qua trong suốt 15 năm sống lang bạt, có bếp lửa hồng, có “tiếng hát hai lần, niềm mong mỏi hai lần” – “dở khóc dở cười”. trong trận chiến. Hãy cười. ”

ở đoạn thơ này, chúng ta có thể nhận ra một đặc điểm trong lối viết của nguyễn du: cảnh và tình luôn hòa quyện, tả cảnh là tả tình, trong tả cảnh đã có sẵn tả tình. Truyện Kiều có hơn ba nghìn câu (3254 câu). đoạn trích trên chỉ thể hiện một phần rất nhỏ của kiệt tác đó. nhưng đây là bài thơ được nhiều người biết đến và đánh giá cao, bởi tài năng tuyệt vời của nhà thơ, nhưng trên hết là vì tình yêu lớn lao của nhà thơ đối với nhân vật, với con người, với cuộc đời.

  • bạn thơ tự tin trong bài “sang thu” – ngữ văn lớp 9
  • Giáo án lịch sử lớp 9 về một tập hợp các ví dụ mới cho bài 7 học kì i xã hội lược đồ nghị luận: tư tưởng đạo đức và hiện tượng xã hội

Nguồn: https://truongxaydunghcm.edu.vn
Danh mục: Văn Học

Related Articles

Back to top button