Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế

Kinh tế tri thức và công nghiệp hóa hiện đại hóa

1 . quan điểm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) gắn với phát triển kinh tế tri thức (ktttt) đã được Đảng ta chính thức đề cập tại Đại hội X là: “tận dụng thời cơ thuận lợi trong điều kiện tình hình”. của cộng đồng quốc tế và những tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế, coi kinh tế là nhân tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp. phát triển mạnh các ngành, sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao phụ thuộc nhiều vào tri thức; kết hợp sử dụng vốn tri thức của dân tộc Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại. “trong chương trình xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) quan điểm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế. phát triển: phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; thực hiện chính sách dân tộc và các hoạt động gắn với phát triển kinh tế; … phát triển khoa học và công nghệ để thúc đẩy kinh tế – xã hội đất nước, phát triển kinh tế và vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới. ”

Thực tiễn lịch sử cho thấy, trong thời đại toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, các nước đều có xuất phát điểm thấp, muốn đạt trình độ tiên tiến nhất thế giới trong việc thực hiện các chính sách và hoạt động gắn với phát triển kinh tế. đây là xu thế khách quan của thời đại toàn cầu hóa; đồng thời là sự “rút ngắn” con đường của quá trình công nghiệp hóa hiện đại để chuyển nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp – tri thức.

Trên thực tế, từ những thập kỷ cuối của thế kỷ 20 đến nay, khoa học và công nghệ đã có những bước phát triển vượt bậc, đặc biệt với sự bùng nổ và hội tụ của công nghệ thông tin và sinh học, công nghệ nano, như Marx và Engels đã dự đoán từ giữa thế kỷ 20. thế kỷ. thế kỷ 20, “tri thức sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp”; “Giá trị của công việc cơ bắp trong các sản phẩm được tạo ra sẽ bị giảm xuống một lượng rất nhỏ”; “Lực lượng sản xuất tinh thần”; “Sự gia tăng của những người làm công tác khoa học”… thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế.

Thuật ngữ “nền kinh tế tri thức”, mặc dù xuất hiện khá sớm, nhưng không được chính thức công nhận trong báo cáo của các quốc gia thống nhất cho đến năm 1990 và kể từ đó các định nghĩa khác nhau về kttt đã xuất hiện trên sách báo. năm 1996, oecd đưa ra định nghĩa: “nền kinh tế là nền kinh tế trong đó sản xuất, truyền bá và sử dụng tri thức có vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải và nâng cao chất lượng cuộc sống”.

Năm 2000, APEC cũng quan niệm: nền kinh tế là nền kinh tế trong đó sản xuất, truyền tải và sử dụng tri thức là động lực quan trọng nhất của tăng trưởng, tạo ra của cải và tạo việc làm trong mọi thành phần kinh tế.

the undp và ngân hàng thế giới định nghĩa: nền kinh tế là nền kinh tế sử dụng hiệu quả tri thức để phát triển kinh tế và xã hội, bao gồm cả việc khai thác cơ sở tri thức toàn cầu, cũng như chiếm lĩnh và tạo ra tri thức cho nhu cầu của chính mình.

p>

tuy có các định nghĩa khác nhau nhưng có thể xác định nền kinh tế là nền kinh tế sử dụng hiệu quả tri thức để phát triển kinh tế và xã hội; Đây là một nền kinh tế với những đặc điểm chính sau:

– không giống như nền kinh tế nông nghiệp phụ thuộc chủ yếu vào tự nhiên, chủ thể chính là nông dân công nghiệp sử dụng “cày, cuốc” để sản xuất; kinh tế công nghiệp, chủ đề là công nhân lành nghề trong việc xử lý các công cụ cơ khí, kinh tế học kinh tế là nền kinh tế có chủ đề là công nhân – trí thức sáng tạo trong điều khiển các công cụ tự động hóa, truyền thông đa phương tiện công cụ, sử dụng hiệu quả tri thức và công nghệ để phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái.

– hoạt động quan trọng nhất trong nền kinh tế là tạo ra, phát huy và sử dụng hiệu quả tri thức, chuyển nó thành giá trị. tri thức đã trở thành nguồn lực chính, có giá trị chiếm tỷ trọng cao, thậm chí tuyệt đối trong sản phẩm. với nền kinh tế, tài năng trí tuệ được coi trọng, quyền sở hữu trí tuệ trở thành yếu tố quan trọng; tri thức trở thành dạng vốn cơ bản nhất, quan trọng hơn tài nguyên và sức lao động; lực lượng sản xuất đã chuyển từ dựa vào tài nguyên thiên nhiên sang chủ yếu dựa vào trí lực của con người.

Xem thêm: TOP 3 cách nấu nước dashi thơm ngon, bổ dưỡng cho bé | VinID

– Nền kinh tế tận dụng tối đa năng lực sáng tạo của con người để vận dụng và tạo ra tri thức mới, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển con người và xã hội một cách nhanh chóng. do đó, chu kỳ sống của một sản phẩm, một công nghệ từ khi ra đời, phát triển, trưởng thành đến khi chết đi ngày càng ngắn; Trước đây, vòng đời của công nghệ được đo bằng hàng chục năm, ngày nay nó được đo bằng năm, thậm chí hàng tháng. tốc độ đổi mới công nghệ rất nhanh.

2 . Sau 25 năm vượt qua những thử thách, khó khăn to lớn, thực hiện công cuộc đổi mới về mọi mặt, đến nay Việt Nam có đủ lý do để khẳng định rằng đổi mới là sự lựa chọn đúng đắn trong một chặng đường phát triển mới về chất, phù hợp với xu thế thời đại. và ý chí của con người.

Xem Thêm : Cách Tính GDP Danh Nghĩa Và GDP Thực Tế Chính Xác Nhất

Ngày nay, công cuộc đổi mới đã bước sang một giai đoạn phát triển mới: đổi mới và hội nhập; đổi mới giữ vững ổn định chính trị theo hướng tích cực để phát triển bền vững; đổi mới hệ thống chính trị phải phù hợp với đổi mới kinh tế để xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân, trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

đổi mới cũng là một quá trình thực hiện, tìm tòi và đúc rút kinh nghiệm; kinh nghiệm của chúng tôi và kinh nghiệm của thế giới. đó là một quá trình tiếp thu có chọn lọc rất nghiêm túc và sáng tạo. Trong 1/4 thế kỷ qua, đổi mới không chỉ là ý chí, là khát vọng, là khẩu hiệu tuyên truyền, mà là quyết tâm chính trị, là hành động xuyên suốt, thấm sâu vào từng tế bào của đời sống xã hội, làm thay đổi nếp nghĩ, cách làm và xây dựng doanh nghiệp. Công cuộc đổi mới đã tạo chuyển biến căn bản, toàn diện trên các lĩnh vực từ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đến an ninh, quốc phòng, đối ngoại: kinh tế tăng trưởng nhanh, tốc độ bình quân 7,2% / năm. Năm 2010, tổng sản phẩm trong nước bình quân đầu người đạt 1.200 USD. cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được hoàn thiện. lĩnh vực văn hóa – xã hội đạt được những thành tựu quan trọng về nhiều mặt. đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt; dân chủ trong xã hội tiếp tục được mở rộng. chính trị xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững. hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế được triển khai sâu rộng, hiệu quả, góp phần tạo môi trường hòa bình, ổn định và tăng nguồn lực cho phát triển đất nước.

Bộ mặt đất nước đã có nhiều thay đổi. thế và lực của đất nước mạnh hơn rất nhiều; Vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên, tạo tiền đề quan trọng để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.

Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử đó đã nâng cao tầm vóc, vị thế của đất nước ta, ngày càng được bạn bè quốc tế đánh giá cao và nhiệt tình ủng hộ. tuy nhiên, kinh tế phát triển chưa bền vững; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh thấp, chưa phù hợp với tiềm năng, cơ hội và yêu cầu phát triển của đất nước. nền kinh tế vẫn dựa chủ yếu vào tài nguyên và lao động, giá trị do tri thức tạo ra không đáng kể; chưa đánh thức và phát huy hết năng lực sáng tạo của con người; nền kinh tế còn tiềm ẩn nhiều yếu tố phát triển thiếu bền vững, có nguy cơ tụt hậu so với các nước. Về cơ bản, nước ta vẫn là một nước chậm phát triển.

Là một nước nông nghiệp đang lên, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế để phát triển, nền kinh tế cần thực hiện đồng thời và lồng ghép hai quá trình: chuyển từ kinh tế trọng nông sang kinh tế công nghiệp và chuyển từ kinh tế công nghiệp sang tăng trưởng kinh tế, trong đó cần xây dựng các “cầu nối trung gian” để thực hiện các bước chuyển tiếp. Đây là một cuộc đua rất khó khăn và phức tạp. trong khi đối với các nước đi trước, thực hiện quá trình chuyển đổi này chỉ là hai quá trình nối tiếp nhau, nhưng đối với nước ta, thực hiện bước phát triển “rút ngắn” đòi hỏi phải kết hợp các bước tuần tự với các bước phát triển nhảy vọt. Một mặt, tận dụng nhân lực, cơ sở vật chất hiện có, sử dụng tri thức mới, công nghệ mới để phát triển sản xuất, tạo việc làm, nâng cao thu nhập. mặt khác, tiến thẳng lên hiện đại ở các khâu, lĩnh vực, ngành nghề có lợi thế, phát triển các ngành, vùng kinh tế trọng điểm, tạo thành đầu tàu có sức kéo mạnh mẽ để toàn bộ nền kinh tế đi lên.

Vì vậy, việc chuyển nền kinh tế theo hướng phát triển dựa trên tri thức trở thành một yêu cầu cấp thiết không thể chậm trễ. Bỏ lỡ cơ hội lớn này, Việt Nam sẽ ngày càng tụt hậu và đó là hiểm họa của dân tộc. Báo cáo chính trị của Đại hội Đảng bộ lần thứ X nêu rõ: “Tranh thủ thời cơ thuận lợi của bối cảnh quốc tế và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng chủ nghĩa xã hội gắn với phát triển kinh tế, coi kinh tế là nhân tố quan trọng của kinh tế và công nghiệp, xã hội. phát triển mạnh các ngành, sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao phụ thuộc nhiều vào tri thức; kết hợp sử dụng vốn tri thức của dân tộc Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại. “Đại hội XI, với tinh thần tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, Người đã nêu rõ: muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa thì phải tiếp tục đổi mới toàn diện và mạnh mẽ. có chất lượng, hiệu quả, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế, phát triển kinh tế thị trường gắn với giải quyết hài hòa các vấn đề xã hội và môi trường …

Xem thêm: Tính giá trị của biểu thức -Hướng dẫn giải bài tập toán lớp 3 – i Toán

3 . Trong những thập niên đầu thế kỷ 20, để thực hiện có hiệu quả bước phát triển “đi tắt đón đầu” để tạo dựng cơ sở kinh tế của Việt Nam, cần tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó cần tập trung thực hiện mọi việc sau. giải pháp sáng tạo:

trước hết, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và có hiệu quả giáo dục và đào tạo theo hướng nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, nuôi dưỡng và phát huy nhân tài.

Đổi mới căn bản toàn diện giáo dục được coi là “bước tiến vượt bậc”, vì nhằm đào tạo, bồi dưỡng và phát huy nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng lợi thế cạnh tranh, bảo đảm phát triển kinh tế xã hội nhanh, hiệu quả và bền vững. . , đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế. Dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011-2020 nêu rõ: “Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một bước tiến chiến lược và là nhân tố quyết định quá trình phát triển nguồn nhân lực của quá trình chuyển dịch, cơ cấu kinh tế. của mô hình tăng trưởng và lợi thế cạnh tranh dài hạn, bảo đảm phát triển kinh tế – xã hội nhanh, hiệu quả và bền vững … triển khai các chương trình, dự án đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho các ngành, lĩnh vực mũi nhọn, tiên phong, trọng điểm về phát hiện, nuôi dưỡng và phát huy tài năng, đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế. ”

Thứ hai, phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ, chú trọng ứng dụng, sáng tạo công nghệ cao làm động lực thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế.

Từ lâu, chúng ta đã quan tâm đến sự phát triển của khoa học và công nghệ, nhưng trong lĩnh vực công nghệ chúng ta chưa chú trọng đến việc ứng dụng và sáng tạo, phát triển công nghệ cao. trên thực tế, việc thiếu cơ chế, chính sách để tập trung vào công nghệ cao không tạo ra động lực phát triển; và công nghệ lạc hậu sẽ cản trở và kìm hãm sự phát triển của ngành và hệ thống. đã đến lúc “tuyên chiến” với công nghệ lạc hậu, chỉ nhập khẩu, ứng dụng và đầu tư đổi mới công nghệ cao trên cơ sở sử dụng hiệu quả công nghệ hiện có. Là nước đi sau, Việt Nam có thể bỏ qua các thế hệ công nghệ trung gian để nhảy ngay vào công nghệ cao, công nghệ tiên tiến, không phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng hiện có. Trong các lĩnh vực công nghiệp dựa trên tri thức, đặc biệt là công nghệ thông tin, Việt Nam có thể chọn một số lĩnh vực để bứt phá trước.

Nhiệm vụ trọng tâm là sử dụng tri thức mới, công nghệ mới của thời đại kết hợp với sáng tạo tri thức mới, công nghệ mới để chuyển đổi nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp, dịch vụ có hàm lượng tri thức cao và giá trị gia tăng cao. đây là yêu cầu và nội dung của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế trong thời đại toàn cầu hóa với trật tự “thế giới phẳng”.

Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X nêu rõ: “Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ là động lực thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển kinh tế; góp phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, vào sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước; tăng tỷ lệ đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp vào tăng trưởng. thực hiện đồng bộ ba nhiệm vụ chính: nâng cao năng lực khoa học và công nghệ; đổi mới cơ chế quản lý; thúc đẩy nghiên cứu ứng dụng ”.

Xem Thêm : Cách làm diều sáo [Diều sáo mini, 1m, 2m bằng giấy, lắp ghép] FULL bay

<3 kinh tế thị trường – xã hội.

Vai trò của quản lý nhà nước trong điều kiện mới phải được coi là quá trình tạo điều kiện cho sự phát triển chứ không đơn thuần là việc thực hiện các quyết định không sát với thực tế.

Kể từ Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, với chủ trương lấy phát triển kinh tế làm nhiệm vụ cốt lõi, lấy xây dựng đảng là khâu then chốt và xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. phát triển hiệu quả và bền vững ở nước ta, Đảng ta cũng chỉ rõ và khẳng định 3 động lực chủ yếu để phát triển là: phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; nâng cao khả năng và sức chiến đấu của đảng và xây dựng; phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong bất kỳ lĩnh vực nào, nhu cầu sáng tạo, đổi mới luôn là năng lực nội sinh của quá trình phát triển kinh tế xã hội. do đó, tiếp tục đổi mới cũng đồng nghĩa với việc tiếp tục thúc đẩy ngành và hoạt động kinh tế gắn với phát triển kinh tế, tạo điều kiện và động lực to lớn để phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững.

Trong tổng thể các nội dung của công cuộc đổi mới toàn diện, cần tập trung nhận thức và thực hiện đầy đủ chức năng, vai trò của nhà nước trong phát triển kinh tế, từ kiểm soát, chỉ huy trở thành “kiến trúc sư” đổi mới giáo dục và đào tạo. , trong phát triển khoa học và công nghệ, tạo môi trường thuận lợi và huy động mọi nguồn lực để thực hiện chuyển đổi từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp. ngoài ra, phải cải thiện tính minh bạch của chính phủ; chống tham nhũng có hiệu quả, tạo điều kiện để nhân dân tham gia tích cực, sáng tạo vào việc xây dựng và thực hiện chính sách. trong điều kiện hiện nay, trước những biến động nhanh chóng, khó lường của tình hình thế giới; sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ, để phát huy vai trò tạo điều kiện của nhà nước trong đổi mới và phát triển, đòi hỏi sự lãnh đạo, quản lý, điều hành của nhà nước phải hết sức nhạy bén, kiên quyết, sáng tạo, bám sát thực tiễn đất nước; nâng cao chất lượng hoạt động dự báo, kịp thời đề xuất các giải pháp phù hợp với tình hình mới. /.

Xem thêm: Khám phá công viên 23/9: Sự kiện – lễ hội, khu ăn uống từ A tới Z

______________________________________

1. Đảng cộng sản việt nam, văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, http://123.30.49.74:8080/tiengviet/tulieuvankien/vankiendang.

2. Đảng cộng sản việt nam, văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, http://123.30.49.74:8080/tiengviet/tulieuvankien/vankiendang.

3. nền kinh tế công nghiệp tri thức là nền kinh tế đang chuyển đổi từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế.

4. undp và ngân hàng thế giới cũng định nghĩa: nền kinh tế là nền kinh tế sử dụng hiệu quả tri thức để phát triển kinh tế và xã hội, bao gồm cả việc khai thác kho tri thức toàn cầu, cũng như làm chủ và sáng tạo tri thức cho nhu cầu của chính mình.

5. chuyển kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công – nông nghiệp; chuyển kinh tế công – nông nghiệp sang công nghiệp; chuyển nền kinh tế công nghiệp thành nền kinh tế tri thức công nghiệp và chuyển nền kinh tế công nghiệp tri thức thành nền kinh tế kinh tế.

6. dang huu (2001), rút ​​gọn khoa học công nghệ, kinh tế và công nghiệp hóa ở nước ta, thành “những vấn đề cần nghiên cứu, quán triệt nghị quyết đại hội đảng bộ lần thứ X”, Hà Nội.

7. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ x, xã luận. ctqg, hanoi, trang 87-88.

8. Đảng cộng sản việt nam, văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, http://123.30.49.74:8080/tiengviet/tulieuvankien/vankiendang.

Nguồn: https://truongxaydunghcm.edu.vn
Danh mục: Công thức

Related Articles

Back to top button