Phân tích Việt Bắc của Tố Hữu siêu hay (21 mẫu) – Văn 12

Giới thiệu tác phẩm việt bắc

Video Giới thiệu tác phẩm việt bắc

to huu vietnamese bac phân tích bài thơ đưa ra dàn ý, sơ đồ tư duy và 21 bài văn mẫu hay nhất. từ đó giúp các em học sinh có thêm gợi ý tham khảo, sở hữu một bài văn ý nghĩa và ghi điểm về tính sáng tạo, mang màu sắc cá nhân khi làm bài để đạt kết quả cao trong kỳ thi THPT quốc gia năm 2022.

Khi phân tích vietnam bac g, người đọc cảm nhận được giọng văn nghiêm trang, quyết liệt, hào hùng, gợi lên tình quân dân sâu nặng, lòng yêu nước mãnh liệt của nhân dân ta. đọc bài thơ ta cảm phục và khâm phục sự tài tình của tố. Ngoài bài phân tích về miền Bắc Việt Nam, bạn cũng có thể xem bài phân tích của miền Tây.

phân tích kế hoạch của Bắc Việt Nam của để huu

i. phần mở đầu bài phân tích các bài báo Việt Nam

“Chín năm như người ta nói hay, biên giới của những bông hoa đỏ nên là một câu chuyện vàng.”

(có thể).

– Cuộc kháng chiến chống Pháp đầy gian khổ đã kết thúc thắng lợi vẻ vang, tháng 10.1945, Trung ương Đảng và Chính phủ chuyển từ Chiến khu Việt Bắc về Thủ đô Hà Nội. Trong một cuộc chia tay đầy luyến tiếc với đồng bào Việt Bắc, Tố Hữu đã viết một bài thơ về Việt Nam.

– bài thơ là một bản tình ca, là lời nhắn nhủ tình cảm giữa người đi và người ở lại, lời nói thể hiện tình yêu, nỗi nhớ của người ra đi. viet bac là một trong những tác phẩm thơ thể hiện được tối đa tài năng và phong cách của để huu…

ii. phần nội dung bài viết thảo luận về bài viết thịt xông khói việt nam

1. hai mươi câu thơ đầu: nhớ về cuộc kháng chiến, từ đó bộc lộ tình quân dân

– thông điệp của người Việt Nam ở phương bắc:

+ bốn dòng đầu của bài thơ có hai câu hỏi tu từ, người ở lại hỏi người ra đi có còn nhớ “ta” người ở đây, người ở hỏi có nhớ “núi thì nhớ nguồn”. mảnh đất nơi tôi đã sống và gắn bó tình thân 15 năm. câu hỏi dùng một cái cớ, nhưng thực sự là một lời nhắc nhở, nhắc nhở mọi người đến rồi đi, đừng quên mảnh đất tình người.

→ những điều chung, tình cảm đạo đức. hiệu quả của nghệ thuật câu hỏi tu từ để bộc lộ tình cảm của người nói, người ở lại bộc lộ nỗi nhớ nhung, thương nhớ người ra đi không nguôi, đáng trân trọng.

+ lời giải thích của nhà thơ, nhắc nhở tôi

– bí mật của người đã trở lại trong bữa tiệc chia tay

  • Bốn dòng tiếp theo gợi ý cảnh chia tay. “Bên cồn khơi gợi về một chốn chia xa trên một bến bờ nào đó, bài hát làm nền, những nhân vật người đi và người trên bãi biển, nắm chặt tay nhau không nói nên lời. tất cả tạo nên một môi trường đầy xúc động, tình cảm, tình quân dân gắn bó.
  • Từ “bồn chồn, không yên” diễn tả trạng thái lo lắng, kích động vì cảm giác choáng ngợp. thể hiện tình cảm của những người ở lại đối với thị trấn, người Việt Nam.
  • Hình ảnh ẩn dụ “áo chàm” của người Việt Nam. tượng trưng cho tâm hồn giản dị, chân chất và sâu lắng của người Việt Bắc.

– trong buổi chia tay, nhớ lại những ngày tháng gian khổ nơi chiến khu

  • “mây mù trùng điệp”, biện pháp xen kẽ nhấn mạnh bầu trời u ám, nặng trĩu, những khó khăn to lớn, ẩn dụ về những ngày đầu gian khổ của cuộc kháng chiến, chỉ ước chừng thiếu thốn mọi mặt ở chiến khu.
  • khi khó khăn có nhau khi hạnh phúc, khi người đi ở, lúc chia tay lòng người bỗng tràn đầy tiếc nuối, nhớ nhung. “Rừng núi” nghĩa đen là chỉ người Việt Bắc. , nỗi nhớ da diết hơn, đại từ “ai” mang phong cách dân gian mộc mạc
  • Tiếng Việt dùng để chỉ những kỉ niệm lịch sử khó quên, tự hào về vùng đất anh hùng.

    ⇒ Hình thức đối thoại, đoạn thơ miêu tả tình cảm của người Việt Bắc đối với cán bộ, chiến sĩ.

    2. lời thú tội của những người đã khuất

    – “Em ở bên anh, anh bên em” là lời khẳng định cho tấm lòng thủy chung, mặn nồng của người đi kẻ ở.

    – con người ra đi với nỗi nhớ, để lại nỗi nhớ trong thiên nhiên, nhớ vầng trăng chiều tà, mặt trời soi sương chiều, rừng trúc … nhớ bốn mùa có nhau

    – Nhớ về con người miền Bắc Việt Nam: dù khó khăn, đòn roi vẫn không dao động, cùng nhau chia ngọt sẻ bùi. gợi lại những kỷ niệm ấm áp với chiến sĩ và đồng bào bằng những câu hò, “lớp i lá”… hình ảnh mộc mạc của người “chị” chăm chỉ

    – ghi nhớ hình ảnh đoàn kết, anh dũng đánh giặc

    – ghi nhớ những việc làm lừng lẫy, niềm vui chiến thắng

    ⇒ tình yêu của người lính đối với con người và quê hương Việt Bắc cũng là tình yêu của nhà thơ đối với nhân dân, đất nước, yêu cuộc sống của cuộc kháng chiến

    3. hình ảnh bộ tứ qua ánh nhìn yêu thương của chủ nhân

    – lời tâm sự của một người thật nghiêm túc và sâu sắc.

    • “hoa và người”: nỗi nhớ về những đồ vật cụ thể
    • đại từ nhân xưng “yo-yo” thể hiện tình yêu và sự gắn bó sâu sắc của người đã khuất
    • từ ” yo ‘m back “ở đầu câu bộc lộ sự lo lắng, nhớ nhung, day dứt khi chia tay, gợi quá khứ.

    – trong nỗi nhớ, hình ảnh mang vẻ đẹp gắn bó với cảnh với người

      hoa chuối, sự tương phản của màu sắc gợi lên sự rực rỡ. không gian bỗng bừng sáng, ấm áp nhờ sắc đỏ làm nỗi nhớ da diết hơn.
    • mùa xuân thiên nhiên Việt Bắc xanh tươi từ núi rừng trở xuống. hoa mai. động từ “hoa” và tính từ “trắng” gợi ý hoa nở, thời gian mùa xuân. vào mùa xuân, mọi người làm việc chăm chỉ, tạo nên một hình ảnh hài hòa. cảnh mùa hạ mang vẻ cổ điển, quyến rũ, tươi sáng và lung linh
    • cuối cùng là cảnh mùa thu với vẻ đẹp của đêm trăng. một đặc tính kỳ diệu, yên bình và thơ mộng. vẻ đẹp mang nhiều ước mơ tươi sáng trong tương lai

    – câu thơ khép lại bằng “khúc ca thủy chung”. Đó là bài hát của những người ở lại, và của cả những người ra đi. bài hát của niềm hy vọng nhiệt thành, tình yêu sâu sắc đối với nhân dân.

    ⇒ đoạn thơ mở ra thế giới cái đẹp: hình ảnh đẹp của thiên nhiên, con người đẹp, trong đó có một trái tim đẹp với khát khao đẹp đẽ. thể hiện tình yêu quân dân, tình yêu đất nước cao cả của nhà thơ.

    4. phần còn lại: đại ngàn việt bắc tháng giêng hào hùng.

    – lối viết sử thi, tác giả miêu tả đội quân sôi sục khí thế trên các chiến trường.

    • từ “đêm” gợi tả một khoảng thời gian dài, từ “gầm” và âm thanh kết hợp với nhịp thơ 2/2 gợi lên những bước hành quân chắc chắn, vững chãi.

    biện pháp phóng đại. “chấn động địa cầu” thể hiện sức mạnh phi thường của quân đội.

  • chân dung quân đội đại diện cho dân tộc anh hùng.

– Con đường gian khổ, hiểm trở nhưng những người lính vẫn cảm nhận được cảnh đẹp thiên nhiên, mây trời, niềm vui khi ngắm cảnh: thể hiện lòng yêu đời, lạc quan, tin yêu vào tương lai.

  • nghĩa là “nón nan”: người lính ra trận với tình yêu thương người lính để tăng thêm động lực chiến đấu
  • hình ảnh cụ thể nhưng giàu sức biểu cảm của súng và tượng ngôi sao. đầu súng gợi cảnh chiến tranh, ngôi sao vẽ cảnh thanh bình, tương lai tươi sáng hay ánh sao cũng là ẩn dụ cho đôi mắt người tình.

– hình ảnh của đám đông

  • ánh sáng của ngọn đuốc gợi lên không khí lao động hừng hực, phá đá mở đường. hình ảnh tươi sáng đó toát lên sức mạnh, khí phách và hun đúc một niềm tin tươi sáng.
  • hình ảnh “những bước chân bị đá đè” làm nổi bật sức mạnh to lớn của quần chúng nhân dân.
  • đoàn xe có vẻ đẹp của anh hùng trong chiến đấu, sức mạnh của chiến tranh nhân dân

– đội quân ra trận đã gửi về nhiều chiến công vang dội, chấn động địa cầu.

  • liệt kê những địa điểm để chứng kiến ​​một chiến thắng nhanh chóng và tưng bừng
  • từ “vui sướng” diễn tả cảm giác hồi hộp và hồi hộp vô bờ bến trong chiến thắng

⇒ bài thơ đã tái hiện lại chân dung của người Việt Nam trong những ngày chiến tranh, tôn vinh đất nước Việt Nam anh hùng, đất nước anh hùng.

iii. kết luận phân tích bài báo tiếng việt

viet bac là một bài thơ xuất sắc mang đậm dấu ấn tou huu. nó không chỉ là sự hài hước giữa cổ điển và hiện đại, cảnh và người, tình yêu và lý trí, mà còn là thơ ca nổi tiếng, những bản anh hùng ca đặc biệt chỉ có ở huu

..

xem thêm: phân tích khái quát các bài thơ Việt Nam

sơ đồ tư duy viet bac

Phân tích Việt Bắc của Tố Hữu siêu hay (21 mẫu) - Văn 12

Phân tích bài thơ Việt Bắc – Mẫu 1

Văn học kháng chiến cho đến ngày nay vẫn chiếm một vị trí quan trọng đối với nền văn học Việt Nam. “Việt bắc” của to huu được coi là công trình đồ sộ, mang nhiều ý nghĩa sâu sắc, là tiếng nói của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến trường kỳ. Phân tích Việt Bắc, ta sẽ thấy được tình cảm trớ trêu, tình đồng bào qua ngòi bút tài hoa, trữ tình của tác giả.

tou huu là một nhà thơ hiện đại lớn, được mệnh danh là lá cờ đầu của phong trào thơ ca cách mạng Việt Nam. cuộc đời hoạt động nghệ thuật của ông luôn song hành với các giai đoạn cách mạng của dân tộc, làm cho thơ ông trở thành một thiên niên sử, hào hùng nhưng vẫn vô cùng sâu sắc. những bài thơ giản dị, ấm áp nhưng mang đậm tính chính trị.

Bài thơ “Việt Bắc” được sáng tác sau chiến thắng thực dân Pháp, là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của nhà thơ. Đầu những năm 40 của thế kỷ trước, Việt Bắc là căn cứ địa quan trọng của chiến tranh. nơi đây quân dân ta cùng chung sống, đùm bọc và chiến đấu. Năm 1954, sau chiến thắng vang dội, trung ương đảng và chính quyền rời căn cứ địa Việt Bắc về Hà Nội. Nhân dịp trọng đại này của dân tộc, tác giả Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc”. Qua bài thơ, tác giả đã gợi lại tình quân dân gắn bó, thắm thiết trong thời kỳ kháng chiến, là tiếng nói của lòng quân dân ta qua máu lửa, gian khổ.

Trước hết, tác giả đưa ra lời tâm sự của người ở lại, tiếng nói từ trái tim của những người con đất Việt khi người cán bộ, chiến sĩ trở về. với thể thơ lục bát, ca từ như những nỗi niềm, lời thủ thỉ và nỗi nhớ:

“Khi trở về, tôi có nhớ mười lăm năm ấy với tình yêu nồng cháy dành cho tôi? Có nhớ trông cây, nhớ núi, nhớ sông, nhớ đài phun nước”

hãy cùng viet bac phân tích để thấy rằng những câu thơ là tâm trạng của những người còn lưu luyến, ăn năn khi phải chia ly. họ phải xa rời những chiến sĩ cách mạng đã gắn bó nhiều năm. tác giả sử dụng hai đại từ “tôi” và “tôi” rất tài tình. nó đã thể hiện sự gắn bó, thủy chung son sắt của cán bộ với nhân dân. ở đây, người bạn đưa ra một khoảng thời gian cụ thể là “mười lăm năm đó.” Đó là một thời gian rất dài, gắn liền với cuộc chiến đấu oanh liệt của quân và dân ta chống lại thực dân Pháp tàn bạo. đó cũng là lúc tình quân dân thắm thiết, thắm thiết. giờ đây cả người ra đi và người ở lại đều mang trong mình nỗi nhớ, đi đâu cũng thấy bóng dáng của những điều xưa cũ, vẫn vẹn nguyên và trong sáng trong lòng. tác giả dường như đã gieo vào lòng người đọc một cảm xúc khác lạ.

Cảm giác lưu luyến, lo lắng của người ở lại khiến người ra đi không khỏi bồi hồi. dường như không ai muốn rời đi:

<3

Câu nói của người ở lại khiến người ở lại không nỡ bước đi. những lời tin tưởng ấy giờ đây khiến nỗi nhớ và ký ức dường như tràn về, không thể nào quên được. Tất cả những trạng thái tâm hồn ấy được tác giả tóm gọn trong hai chữ “nỗi buồn”. Nó giống như một cuộc chiến, níu kéo không muốn đi, như một nỗi buồn man mác khi nghĩ đến việc chia tay. Cảm giác đó thật khó diễn tả bằng lời.

Hiện tại, tâm trạng của những người ra đi và những người ở lại không thể giải thích tại sao lại như vậy. Phải chăng tình yêu quá lớn và những kỉ niệm quá đong đầy để từ chối? Trong suốt 15 năm sinh sống và gắn bó với mảnh đất này, biết bao cay đắng ngọt bùi đã phải đồng hành, đồng hương, chia sẻ miếng ăn, giấc ngủ. những năm tháng gian khổ ấy không chỉ được kể lại bằng vài từ như thế này, mà những câu nói ấy khiến cảm xúc trào dâng, không khỏi nhớ nhung và hy vọng. người ra đi trả lại tình yêu cho người ở lại:

“Tôi và tôi, tôi và trái tim tôi, chúng tôi luôn hài lòng”

“tôi” và “tôi” dường như hợp nhất thành một đơn vị, không thể tách rời. người đã khuất khẳng định rằng “mặn mà an”. hai chữ “phòng ăn” như đóng đinh vào lòng người đọc một tấm lòng son sắt, thủy chung trước sau. Đó là một tình cảm rất thiêng liêng và cao quý.

Chỉ khi nghĩ đến núi rừng Việt Bắc, tác giả mới nhớ đến thiên nhiên và con người nơi đây. mọi thứ hiện ra đều rất sống động, đầy ý nghĩa, tràn đầy yêu thương. chỉ với vài bước phác họa bộ tứ hình ảnh thiên nhiên và con người nơi đây hiện lên một cách trọn vẹn, ý nghĩa và đẹp đẽ nhất:

“mỗi khi về lại nhớ mình, nhớ hoa và người, rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi, nắng đèo cao, thắt lưng buộc dây, ngày xuân mơ nở, rừng trắng xóa nhớ người đan nón đan từng sợi, rừng nghe như rừng rơi nhớ chị em hái tre một mình, rừng thu trăng soi bình yên, nhớ chị em hái tre một mình ”

một hình ảnh đẹp, sống động và hoang sơ của tứ bình và núi rừng Việt Nam. trong một hình ảnh ấy không chỉ có hình ảnh thiên nhiên đẹp đẽ, hùng vĩ mà còn là hình ảnh con người chân chất, mộc mạc nhưng giàu tình cảm và ý nghĩa. Đây có lẽ là đoạn thơ hay nhất, đẹp nhất, trữ tình nhất trong toàn bộ bài thơ Việt Bắc. đó là điểm sáng để cả bài thơ tràn ngập niềm yêu đời và lạc quan.

Từ “nhớ” được tác giả sử dụng lặp đi lặp lại trong suốt tác phẩm. nó khiến nỗi nhớ trong cả bài thơ như trào dâng, cảm xúc của tác giả ngoài bùng nổ, dội lại mạnh mẽ, tràn trên mặt chữ.

nhà thơ không chỉ nhớ về cảnh vật, con người miền Bắc Việt Nam, mà trên hết, ông còn nhớ về những cuộc chiến tranh ác liệt, gian khổ đã diễn ra trong một thời gian dài:

“Còn nhớ khi giặc đến xâm chiếm rừng, chúng ta cùng nhau chống núi giăng pháo đài sắt, rừng che quân rừng bao vây quân thù”

ở đây giọng thơ không còn nghiêm trang, thủ thỉ mà hào hùng, vang dội khi kể về cuộc chiến oanh liệt của quân và dân ta. Những trận đánh ấy diễn ra giữa núi rừng Việt Bắc để lại từng dấu vết nơi đây. và không chỉ con người đoàn kết với nhau mà dường như thiên nhiên cũng đứng về phía người lính để “vây bắt kẻ thù”.

qua những câu thơ này, dường như tinh thần của dong a lại trỗi dậy, hừng hực khí thế và đầy kiêu hãnh. Cho đến mai sau, chiến thắng vẻ vang và tinh thần đoàn kết thống nhất sẽ được ghi lại và lặp lại mãi mãi.

Với thể thơ lục bát, giọng điệu trữ tình và những hình ảnh độc đáo, “viet bac” đã khắc họa thành công những sự kiện trọng đại của đất nước. Hơn hết, bài thơ đã tái hiện lại một chặng đường hào hùng, sự son sắt, gắn bó của quân và dân ta, nhân tố quan trọng làm nên thắng lợi vẻ vang của quân dân ta. Họ là những con người nhỏ bé nhưng phi thường, hết lòng vì dân, vì nước, vì cách mạng, đoàn kết, trung thành với lý tưởng cao đẹp.

Phân tích bài thơ Việt Nam – mẫu 2

tou huu là một nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam nói chung và của nền văn học cách mạng nói riêng, ông là ngọn cờ đầu của nền thơ ca cách mạng và kháng chiến. có sự thống nhất hài hòa giữa đời sống cách mạng và đời sống thơ ca. Vì vậy, có thể nói, qua những tác phẩm của ông, chúng ta không chỉ thấy được thế giới tâm hồn giàu cảm xúc, thấy được phong cách nghệ thuật độc đáo của ngòi bút thơ của tác giả, mà qua đó, nhà văn dường như đã phản tỉnh, phản ánh rõ nét hơn những mốc son lịch sử quan trọng trong thời cuộc kháng chiến bảo vệ độc lập dân tộc, để người đọc thấy trọn vẹn những trang lịch sử oanh liệt của đất nước như những thước phim quay chậm. Hãy phân tích bài thơ bằng tiếng việt và bạn sẽ hiểu.

Bài thơ được sáng tác vào tháng 10 năm 1954, ngay sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi, các cơ quan trung ương của Đảng và chính quyền Việt Nam, nhân dân thủ đô trở về Hà Nội. tou huu cũng là một trong những cán bộ kháng chiến đã sống và gắn bó với con người và thiên nhiên Việt Bắc, nay lại ra đi với nỗi buồn và nỗi nhớ, nhà thơ xúc động viết bài thơ này.

Bài thơ được viết theo thể lục bát, thể thơ truyền thống của dân tộc với âm hưởng mượt mà, uyển chuyển, thấm đẫm chất trữ tình của ca dao. Trong cảm xúc sâu lắng, bùi ngùi khi chia tay, việc sử dụng thể thơ này để bộc lộ cảm xúc, nhớ về những kỉ niệm gắn bó với núi rừng Việt Bắc và con người Việt Bắc là hoàn toàn hợp lý.

tác giả mở đầu bài thơ bằng một loạt câu hỏi tu từ:

Bạn có nhớ tôi khi bạn trở lại với chính mình không? mười lăm năm trước, bạn có nhớ không? Nhìn cây nhớ suối, nhìn sông nhớ nguồn. tôi có thể nói gì hôm nay … khi tôi đi, tôi nhớ những ngày mưa, suối, mây và sương. nhớ về cuộc chiến với cơm mặn và thù dai? khi về già có nhớ nhà xưa, rặng cau xám, lòng son giàu có, có nhớ núi non khi chống nhật, khi còn ở việt minh, khi đi có nhớ tan trạo, hong thai, nóc nhà cây đa?

những kỉ niệm ấy giờ đây chỉ còn là những kỉ niệm trong dòng kí ức … cứ chầm chậm trôi … những câu hỏi cứ hiện lên nối tiếp nhau tạo thành một điệp khúc thấm đẫm tâm trạng nhân vật trữ tình. Cũng chính qua những đường nét ấy, cảnh sắc núi rừng đại ngàn Việt Bắc hiện lên rõ nét nhất. đó là những núi non hùng vĩ, những dòng sông, những cơn mưa xối xả trút vào nguồn mây khói… nhưng giữa hình ảnh ấy nổi bật lên là cuộc sống đời thường và cuộc đấu tranh rất gian khổ, vất vả nhưng vô nghĩa. những người con cùng dòng tộc trong cán bộ kháng chiến và nhân dân Việt Bắc. Dù cuộc sống chiến đấu còn nhiều vất vả, khó khăn nhưng nhờ sự đùm bọc, giúp đỡ tinh thần của những người dân chân chất nơi núi rừng đại ngàn ấy, mọi thứ đã biến thành những kỷ niệm đẹp, khó quên trong lòng tôi cả hai bên.

chân bước đi nhưng trái tim ở lại … trái tim đã gắn bó hơn mười năm nay đã thuộc về đất, về người, về núi rừng nơi đây, giờ phải chia lìa để rồi Tôi có thể không được giúp đỡ. người lính bước đi sầu thảm. những câu hỏi của người Việt Bắc không chỉ thể hiện nỗi nhớ mà còn muốn đi sâu tìm hiểu những ngày kỷ niệm đó.

cách gọi “i – ta” cũng là một cách gọi hết sức gần gũi, thân thiết thể hiện tình cảm gắn bó máu thịt giữa quân và dân, chính vì thế mà lời ca như tâm tình thủ thỉ, giọng thơ có âm hưởng. thưởng thức nhẹ nhàng mà say đắm. hình ảnh chiếc áo chàm trong câu thơ: “áo chàm đem chia li…” là hình ảnh ẩn dụ cho cuộc chiến đấu chia cắt của người Việt Bắc. những bàn tay đan vào nhau, người đi người ở, không biết nói gì hơn ngoài những cái bắt tay nồng nhiệt. Chúng ta cũng đã thấy sự bắt tay này trong thơ ca của những người công bình:

áo anh rách, vai anh rách, quần tôi mấy mảng tường không giày, thương nhau nắm tay …

Đúng vậy, họ không có gì để trao cho nhau giữa bầu trời đêm lạnh giá ngoài tình đồng chí gắn bó. cái bắt tay giản dị đã giúp người lính vượt qua những khó khăn, gian khổ của buổi đầu kháng chiến. ở đây cái bắt tay này diễn ra trong hoàn cảnh chia cắt nên có ý nghĩa như một minh chứng cho tình cảm quân dân thắm thiết.

Trước tình cảm chân thành và cách thể hiện nỗi nhớ đặc biệt ấy, người lính đã dần mở lòng hơn trong từng câu chữ:

ta và ta, ta và lòng ta rốt cuộc tưởng ra đi, ta nhớ mình như cội nguồn bao yêu thương, nhớ không gì bằng nhớ người thương, trăng trên đỉnh núi, mặt trời. của chiều trên lưng nhớ từng làn khói sương sớm bên bếp lửa thân thương nhớ từng rừng tre bên sông ngày lạch lê lết đầy mình. những ngày tháng ta đây cay đắng ngọt bùi … thương nhau, chung gốc cau, chung tấm cơm, nửa tấm chăn, nhớ mẹ dãi nắng dầm sương cõng con. bẻ từng bắp, nhớ sao lớp tôi đồng báo khuya, đuốc sáng bữa tiệc, nhớ sao những ngày cơ quan vất vả vẫn hát vang núi đèo.

ký ức ùa về, từng ký ức trong vắt như thể mới xảy ra ngày hôm qua. người lính khẳng định tấm lòng thủy chung son sắt, nghĩa tình sâu nặng như suối nguồn tươi mát đổ về làng. người lính vẫn nhớ vầng trăng tròn sau rặng núi xa bản, nắng vàng mật ong tràn trên ruộng bậc thang nồng đượm mùi lúa chín, những buổi sáng mờ ảo trong mây khói, anh nhớ từng suối rừng. … thiên nhiên núi rừng Việt Bắc lại hiện lên qua từng câu thơ thơ mộng khiến ai đi xa cũng không khỏi nhớ nhung.

nó cũng xốn xang khi nhớ lại hương vị của củ sắn, bắt được nửa phần cơm, tuy giản dị nhưng nồng nàn. Hình ảnh người mẹ cõng con đi làm đồng là hình ảnh tiêu biểu cho phong trào tòng quân ở núi rừng Việt Bắc. nhớ lớp, nhớ bài ca dân quân… những kỷ niệm đó thật sự rất đẹp và đã trở thành một phần máu thịt của anh. Chưa cần phải nói lời chia tay, nhưng bằng cách tái hiện một loạt câu hỏi như thế, chúng ta mới thấy được tình cảm sâu sắc, sự gắn bó chân thành giữa cán bộ và nhân dân.

Khi đi về lại nhớ mình, nhớ hoa và người, rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi, đèo cao, nắng chiếu thắt lưng, ngày xuân, mơ nở, và rừng trắng nhớ người đan nón, se từng sợi. một mình trong rừng thu trăng soi hòa bình, nhớ ai khúc tình thủy chung.

Qua một vài câu thơ, nhà thơ đã tái hiện một cách chân thực và rõ nét nhất thiên nhiên đất nước Việt Nam qua bốn mùa xuân hạ, hạ thu, đông về mà nhà thơ đã chọn để miêu tả mùa đông trước khi người lính đến đông và cũng đi vào mùa đông, mùa đông là mùa gặp gỡ, chia phôi nên khắc sâu vào lòng người. mùa đông – mùa của những cánh rừng xanh mướt, hoa chuối đỏ tươi. những con người xuất hiện trong bức tranh thơ mộng ấy đang ở trong tư thế chinh phục thiên nhiên: “những ngọn cao đèo trong nắng, dao thắt lưng”. mùa đông chuyển sang xuân, hình ảnh miền bắc Việt Nam khoác lên mình một màu sắc mới. đó là màu trắng tinh khôi của hoa mai, con người lao động rất cần cù. Vào mùa thu, những cánh rừng trắng xóa, màu hoa mơ chuyển sang màu hổ phách, tiếng ve như sưởi ấm lòng người. hình ảnh cô gái Việt Nam đi hái măng một mình thật nên thơ. kết thúc hình ảnh bốn mùa là ánh trăng thanh bình với những câu hát thiết tha, thủy chung.

Có thể nói, qua một vài câu thơ, dòng đời như cô đọng lại trong từng câu chữ. con người việt nam và thiên nhiên làm trung tâm trong hình ảnh bốn mùa đó. các nàng tiên tượng trưng cho màu sắc của bốn mùa khi lướt qua các dòng chữ.

sau những câu thơ miêu tả thiên nhiên, người lính nhắc đến những hoạt động cách mạng vô cùng sôi nổi của mình:

nhớ khi giặc đến xâm chiếm rừng núi, đá ta cùng nhau đánh về phía tây, núi trải một lũy sắt dày, rừng che lính rừng, vây giặc, sương mù bao trùm, và toàn bộ chiến khu của chúng ta đã ở trong một trái tim, bạn có nhớ ai không? đèo phùng thông, đèo giang nhớ sông Lô nhớ phố thương nhớ từ cao lang đến nhì hà nội…

Những kỷ niệm hiện lên trong tâm trí những người lính chiến đấu chống lại kẻ thù. khi giặc đến, không chỉ bộ đội ta mà cả núi rừng hoang vu đoàn kết đánh giặc. Đối với quân và dân ta, rừng giang rộng vòng tay yêu thương che chở, những tán lá xanh mướt của rừng như một tấm áo ngụy trang khiến bộ đội yên tâm chiến đấu, đánh thắng kẻ thù. đối với địch, rừng rậm địa thế hiểm trở như một mảng bao vây khiến chúng rơi vào nhiều cạm bẫy. Khi ấy, thiên nhiên núi rừng Việt Bắc đã góp phần làm nên chiến thắng, làm nên những trang sử vẻ vang của dân tộc.

nhưng trên hết, tình quân dân được thể hiện rõ hơn trong bài thơ:

Xa lộ Bắc Việt của chúng ta về đêm ầm ầm như đất rung chuyển, trùng trùng sao pháo và đuốc đỏ, bậc thềm đá dăm, muôn ngàn ngọn lửa bay qua sương mù dày đặc soi bóng đèn pha như mai. sẽ có tin vui chiến thắng trăm miền hòa bình, tây bắc, di tốt sẽ vui từ đồng thap an khevui về việt nam núi hồng đèo.

khí thế hừng hực khí thế của đoàn quân được thể hiện qua hình ảnh so sánh “đêm khuya như tiếng đất nung”, qua những từ gợi tả “trùng điệp”, qua hình ảnh ánh sao mai với đầu súng, nón lá. – Hình ảnh tượng trưng cho quân và dân bắc việt. Ngọn đuốc trong tay của quân và dân không chỉ thắp sáng cả bầu trời Việt Bắc lúc bấy giờ mà còn thắp sáng bao thế hệ, thắp sáng tương lai, thắp lên niềm tin và hy vọng về một chiến thắng không xa. sức mạnh của cả một đội quân hùng hậu đến mức có thể thổi bay những tảng đá mà không một thế lực nào có thể ngăn cản được. Với nghệ thuật phóng đại cường điệu, nhà thơ sang hu dường như đã tái hiện lại bối cảnh lịch sử thuở ấy, giờ đây qua những câu thơ ngắn gọn, ta như được trở về một thời hào hùng của ông cha ta. giữa bóng tối bao quanh, ánh đèn pha dường như thắp sáng niềm tin và hy vọng của mọi người về một tương lai tốt đẹp hơn.

Cuối cùng, sau những tháng ngày chiến đấu trường kỳ, gian khổ, quân và dân ta đã giành được thắng lợi vô cùng vẻ vang. Không có từ ngữ nào diễn tả được niềm hạnh phúc vô bờ bến. từ tây bắc bình yên hay di tốt, mọi người dường như hân hoan cùng một niềm vui. Điều đó thể hiện tình đoàn kết bền bỉ của quân và dân ta khi đất nước gặp khó khăn.

Ra đi trong niềm tiếc thương, nhà thơ đã hát lên những giai điệu hào hùng ca ngợi đất nước ca ngợi đảng và chính quyền Việt Nam:

ai còn nhớ? cờ đỏ thắm, gió lộng, cửa hang, giữa trưa nắng, sao vàng, trung ương, để nói về việc công. lăn xả chiến dịch thu đông ở quê phát động giao thông mở đường duy trì đê điều phòng chống hạn hán thu lương gửi nơi giặc u ám nhìn về việt bắc hồ sáng nơi nỗi đau giống nòi nhìn việt nam mà giữ mười lăm năm trời, ai quên quê mẹ cách mạng dựng nước cộng hòa nhớ quê hương cây đa hồng thái là thế.

Ngày hôm qua ấy mãi mãi trong tim người chiến sĩ cách mạng, hiện hữu như một kỷ niệm không thể tách rời. hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng như minh chứng cho những chiến công hiển hách của dân tộc. hình ảnh chú ho là biểu tượng của lòng dũng cảm và nghị lực cho quân và dân ta tiếp tục chiến đấu và chiến thắng. các bác sĩ muốn tiếp thêm cho chúng ta lòng dũng cảm và ý chí vì chỉ có ý chí mới có thể vượt qua chông gai, thử thách và khó khăn đang chờ đón chúng ta.

Khi tôi đi đến thành phố xa, tôi có thể nhìn thấy núi đồi? Bạn có còn nhớ thị trấn lên đèn không? Có còn nhớ vầng trăng giữa rừng không?

bài thơ như lời trăn trối khôn nguôi của những người con đất Việt đối với người chiến sĩ cách mạng lúc ra đi. Những hình ảnh ẩn dụ như nhà cao, núi non, phố xá, đèn sáng và vầng trăng giữa rừng là những hình ảnh đại diện cho cuộc sống ở thành phố và trên núi. đối lập một bên là cuộc sống giàu sang, no đủ, một bên là những con người nghèo khổ nhưng đầy ắp kỉ niệm nơi núi rừng thiên nhiên, tác giả đã thể hiện được nỗi niềm trăn trở trong lòng người nếu hoàn cảnh. cuộc sống thay đổi, bức tranh có một sự thay đổi. từ trái tim, quên đi quá khứ, quên đi người đã kề vai sát cánh trong những ngày khó khăn, đang ngày đêm khao khát mong mỏi anh trở về. Đáp lại, quan chức này tuyên bố:

hôm nay đường đi lại đây, rời thôn hướng thành phố, nhà cao cách núi xanh không xa, đông thành thúc giục ngươi ngày mai mau lên đường, trở về thôn, xưa rừng, núi cũ, yêu lại ngày mai, bận tranh ngược xuôi đoàn tàu chạy xuyên núi…

Người cán bộ lão thành cách mạng khẳng định tấm lòng thủy chung: dù cuộc đời có đổi thay nhưng tấm lòng luôn hướng về Việt Bắc, trái tim luôn chan chứa tình cảm yêu mến con người và thiên nhiên nơi đây. dù ở nhà cao cửa rộng cũng không quên núi xanh. một ngày nào đó, họ sẽ về thăm lại làng quê, tình cảm của họ sẽ trở lại trong lành và vẹn nguyên như thuở ban đầu.

Trong những giây phút chia ly cuối cùng, thông điệp cuối cùng mà người Việt Nam muốn gửi đến là:

Trở lại bác gái trên đường, trong lòng không khỏi nhớ nhung lão bản ánh mắt lấp lánh. áo nâu túi vải đẹp tươi, nhớ em những buổi sáng lặng lẽ trên yên xe trong lạch, nhớ chân người đi đèo, người vượt núi băng rừng để. quan sát hình bóng con người.

Hình ảnh người bác lại một lần nữa xuất hiện trong bài thơ. là bạn không xuất hiện như một biểu tượng đẹp đẽ để tiếp thêm ý chí và niềm tin của người chiến sĩ cách mạng, không phải là biểu tượng của sức mạnh chiến thắng kẻ thù, mà bạn xuất hiện trong những câu thơ này bạn là một con người rất đỗi bình thường: mắt sáng, da nâu. áo sơ mi có túi vải trong tư thế thư thái trên ghế vào mỗi buổi sáng. thực ra, hình ảnh chú tiểu hiện ra như một cổ tích trong truyện cổ, rất giản dị nhưng đẹp đẽ lạ thường. giờ người đó đã khuất núi rừng như dõi theo từng bước chân của bạn.

cuối bài thơ là hai dòng với âm hưởng rực rỡ:

Hãy nắm tay nhau và cùng nhau hát hò vui vẻ, Ngày mai hãy cùng nhau hát vang thủ đô.

hai câu cuối của bài thơ mang âm hưởng vui tươi, chính vì vậy mà dù chủ đề nói về cuộc chia tay nhưng nó không hề khiến người đọc cảm thấy buồn bã, xót xa hay tiếc nuối mà ngược lại, nó vẫn tươi sáng. và vui vẻ. , mở ra một tương lai vẻ vang, một viễn cảnh tương lai khi đất nước phát triển không ngừng. câu hát cuối bài khép lại bài thơ như một lời ngợi ca sức sống của đất nước, đồng thời cũng là lời ca chia tay đầy tin tưởng.

Bài thơ Việt bac khép lại nhưng để lại dư vị khó phai trong lòng người đọc. để có được thành công như vậy trước hết phải kể đến những nét đặc sắc của nghệ thuật. chất thơ dân tộc được thể hiện khá rõ nét xuyên suốt bài thơ. nhà thơ sử dụng rất thành công thể thơ lục bát, một thể thơ quen thuộc trong văn học dân gian, với âm hưởng tinh tế, mềm mại đã khắc sâu vào tâm trí mỗi người. chất văn xuôi cũng được gửi gắm trong bài thơ và được vận dụng sáng tạo một cách linh hoạt, những hình ảnh so sánh, ví von cũng góp phần tạo nên giọng điệu cho bài thơ.

Xem thêm: Nghị Luận Vợ Nhặt ❤️️ 15 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất

Bài thơ của viet bac không chỉ tái hiện không khí của những năm kháng chiến chống Pháp mà còn đưa người đọc ngược dòng thời gian để tìm lại vẻ đẹp trong lòng người: vẻ đẹp của trái tim. vẻ đẹp của tinh thần đoàn kết, và rộng hơn là tinh thần trách nhiệm với đất nước, với nhân dân. Cũng từ đó ta thấy được tài năng và khả năng đồng cảm tinh tế với vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Việt Bắc của Tố Hữu. Để có được điều này, anh đã dành nhiều thời gian sống và gắn bó với con người, với thiên nhiên núi rừng Việt Bắc.

Bài thơ tiếng việt của bác sĩ tử cùng với các bài thơ khác cùng thời, cùng chủ đề như bài “Đồng chí hữu” của bác sĩ Tiến Duật và bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật, đã đóng góp phần lớn về chủ đề. thơ ca cách mạng không chỉ có tác dụng cổ vũ tinh thần cho người chiến sĩ mà còn là sự phản ánh một thời oanh liệt của dân tộc, để thế hệ sau mãi mãi tự hào.

Phân tích bài thơ Việt Nam – mẫu 3

Năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, hòa bình lập lại. Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, cán bộ, chiến sĩ rời Việt Nam trở về thủ đô Hà Nội. Trong không khí lưu luyến chia tay giữa nhân dân Việt Bắc và những người cán bộ cách mạng, nhà thơ Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc”. Với nhãn quan của một nhà thơ cách mạng, một nhà tư tưởng, một người bạn, ông đã phản ánh sâu sắc hiện thực mười lăm năm kháng chiến của Việt Bắc và dự báo diễn biến tư tưởng hòa bình.

Đoạn trích trong bài thơ “Việt Bắc” miêu tả cuộc chia tay đầy mong đợi giữa người Việt Bắc và những người cán bộ kháng chiến, đồng thời gợi lại những kỉ niệm của cuộc kháng chiến hào hùng và nghĩa tình. Tác giả đã chọn thể thơ lục bát và lối hát đối đáp như trong ca dao và hình dung người Việt Bắc và người cán bộ kháng chiến là Ta – Ta. cuộc chia ly giữa người dân Việt Bắc và người chiến sĩ cách mạng như cuộc chia tay của một đôi trai gái đầy xót xa, nhớ nhung, luyến tiếc.

mở đầu là lời của viet bac. Rất tế nhị khi để cho người ở lại nói trước, người ở lại vì khi nói lời chia tay, người ở lại thường lo lắng cho người ra đi:

“Bạn có nhớ tôi khi tôi trở lại với chính mình không? anh có nhớ em trong suốt mười lăm năm ấy với tình yêu nồng cháy dành cho em không? Có nhớ cây, nhớ núi, trông sông, nhớ nguồn? ”

bài thơ “viet bac” có hai giai điệu chính. câu hát mở đầu “Em về một mình anh nhớ em” là giai điệu chính đầu tiên. bài thơ tôi vừa đọc có vẻ như không có gì sâu sắc nhưng sâu sắc. cả trăm cặp đôi chia tay cũng nói lên điều này. yếu tố mượn màu nghĩa tình và thể hiện tình cảm cách mạng. đại từ tôi và tôi nằm ở hai đầu dòng, chúng tôi đã nhìn thấy khoảng cách. từ “nhớ” được lặp lại ba lần tạo nên âm hưởng chính của bài thơ: nhớ nhung, bồi hồi thường trực, ân tình, ân nghĩa. người về lặng người trước những câu hỏi nặng nề và đầy ý nghĩa của viet bac:

“tôi có thể nói gì với chúng tôi hôm nay…”

viet bac hỏi lại:

“Khi ra đi, anh có nhớ những ngày mưa dầm dề sông suối, mây về, có nhớ chiến tranh cơm mặn, chiến đấu bền chặt?”

cho viet bac hỏi là cách nhà thơ nhớ về những ngày kháng chiến gian khổ. chỉ là một vài hình ảnh “mưa suối, mây trời” là cảnh u ám của núi rừng những ngày đầu kháng chiến. ta và ta đã cùng nhau chia sẻ những gian khổ “miếng cơm manh áo”, cùng nhau chiến đấu chống lại kẻ thù chung là “kẻ thù không đội trời chung”.

Vẫn là một câu hỏi về tiếng Việt, nhưng bài thơ đã chuyển sang:

“Em về rồi, núi rừng nhớ mai rụng, mai già đi. Em đi rồi, nhớ lau sậy xám xịt đầy son”

Phép tu từ nhân hoá “rừng núi nhớ ai” thể hiện tình cảm sâu nặng của người Việt Bắc đối với những người kháng chiến. Khi tôi trở về, núi rừng Việt Bắc trống trải, “lấp cho mai rụng, mai già”. Nhồi (nhồi xanh và nhồi đen) và mơ là hai món ăn thường ngày của cán bộ, chiến sĩ kháng chiến. mượn cái thừa để nói cái còn thiếu, thật tuyệt! lối sống tương phản giữa bề ngoài (hí hửng xám xịt) và bên trong (với tấm lòng thâm trầm) thể hiện cuộc sống chân chất, nghèo khổ của người dân Việt Nam, nhưng sâu thẳm họ vẫn trung thành với cách sống. mạng.

ở cuối câu, viet bac hỏi mọi người về:

“Em đi rồi, anh có nhớ em là người mới, hồng thai, mái đình cây đa không?”

giai điệu chính thứ hai của bài thơ xuất hiện: “Tôi ra đi, tôi nhớ chính mình”. nếu giai điệu thứ nhất là đạo lý của dân tộc với tư tưởng đền ơn đáp nghĩa thì giai điệu thứ hai là cách mạng. viet bac nhắc người về không chỉ “nhớ anh” mà còn phải “nhớ anh”, trong lời yêu thương, người ta không chỉ phải “nhớ anh” mà còn phải “nhớ anh”. “bạn” đã ở với tôi. bạn đã sống với tôi trong mười lăm năm, biết ơn biết bao, anh hùng biết bao! Cùng chúng tôi viết tiếp trang sử hào hùng của dân tộc “mái đình, cây đa”. Giờ chúng ta đã xa nhau, chúng ta đã trở lại thành phố, nhớ đừng đổi ý với anh, nhưng đừng đổi ý với chính mình:

“Ta đi thành phố xa, có còn thấy núi đồi Không đông có nhớ phố lên đèn, có nhớ trăng giữa rừng?”

để người viet bac thận trọng là một cách khôn khéo để nhà thơ dự báo những diễn biến tư tưởng trong thời bình.

“Tôi đi đây, tôi nhớ bản thân mình”

đó là dòng hay nhất của bài thơ “viet bac” nhưng cũng là một sáng tạo tuyệt vời của tou. hoan nghênh hết lời ân tình của Bắc Việt, nay người mới mở miệng. lời nói của mọi người cũng chân thành:

“Ta với ta, ta bằng lòng, trước sau mặn nồng, ta đi, ta nhớ ta thủy chung, ta bao nhiêu tình…”

hai đại từ ta – ta cứ xoắn quyện vào nhau “ta và ta, ta với ta” thật say đắm. ý nghĩa không rõ ràng và sau đó được hợp nhất thành một:

“Tôi đi đây, tôi nhớ bản thân mình”

(câu trả lời cho câu hỏi: “bạn có nhớ tôi khi tôi trở lại”)

ngôn ngữ của tình yêu là “bạn đang rời đi, tôi nhớ bạn”. nỗi nhớ của người trợ lý dạt dào nên tình yêu của người trợ lý đối với tiếng Việt là vô bờ bến. người trả lời như thế này chắc đã làm yên lòng người ở lại: viet bac.

vì vậy đó là một biến thể của giai điệu đã được hình thành và mở rộng đến vô tận. Tất nhiên, đó chỉ là một thủ pháp để nhà thơ vừa miêu tả mối quan hệ khăng khít giữa Việt Bắc với cách mạng, vừa miêu tả bản hùng ca kháng chiến của quân và dân Việt Bắc.

Để xóa tan nghi ngờ của người ở lại, người trở về phải nói những lời ấm áp, có thể so sánh với tình cảm cao quý nhất của con người:

“Nhớ không gì bằng nhớ người thân, trăng lên đỉnh núi, mặt trời soi bóng lưng”

từ “nhớ” được nhân đôi và mỗi từ gợi lên vô số kỷ niệm đẹp giữa bạn và tôi. những chi tiết nhỏ đã được ghi nhớ (và người tình nhỏ là chi tiết lớn).

“Thương nhau, sẻ sắn, chung bát cơm, đắp chăn cho nhau”

người dân Việt Nam đẹp và quý giá biết bao khi anh trở về:

“nhớ mẹ với cái nắng như thiêu đốt”. dắt con cái ra đồng, bẻ từng bắp ngô. ”

tiếng mõm trâu trong rừng buổi chiều, tiếng cối ngoài lạch về đêm vang lên trong lòng người ra đi:

Xem Thêm : Tìm hiểu chi tiết: Nguyễn Du Và Truyện Kiều | Ngữ văn 9

“Hãy nhớ tại sao tiếng rừng réo rắt lúc chiều và đêm đập cối vẫn vang xa…”

nói ngắn gọn là ai đó nhớ về thiên nhiên tươi đẹp, thơ mộng, hữu tình của Việt bắc (1); nhắc nhở con người Việt Nam giản dị, yêu đời, thủy chung. của tiếng nói của con người anh hùng. cuộc kháng chiến anh dũng của tôi và tôi được tái hiện trong trí nhớ của bạn về:

“Nhớ khi giặc đến xâm lăng rừng núi, núi đá, ta cùng nhau đánh tây, giăng thành lũy sắt, rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”.

Thiên nhiên Việt Nam dường như có hồn nhờ cách sử dụng nhân cách hoá của tác giả. cảnh đẹp núi rừng Việt Bắc đã trở thành bức trướng sắt che chở, che chở cho bộ đội “dứt điểm”, “đánh giặc”. mỗi tên núi, sông, phố, thị xã là một chiến công lừng lẫy của quân và dân Việt Bắc. rồi những đêm vắng vẻ, những dòng người đông đúc, những đoàn xe tải ồn ào:

“Những con đường bắc việt của chúng ta về đêm ầm ầm như đất rung chuyển, trùng trùng điệp điệp ánh sao trên đầu ngọn súng và mũ đỏ của người dân tộc nandan, ngọn đuốc trên những bậc đá vụn, ngàn tàn lửa bay ngàn đêm. sương mù sâu thẳm sẽ sáng lên như ngày mai. ”

tác giả chuyển sang giọng điệu thơ trang trọng, thiêng liêng để bày tỏ nỗi nhớ về trung ương: cố nhân. và hình ảnh viet bac trong ký ức của nhân dân là quê hương cách mạng, là căn cứ địa kháng chiến, là niềm tin và hy vọng của toàn dân tộc.

những người trở về cũng không quên trả lời câu hỏi thú vị của viet bac:

“Mỗi khi đi về, lòng nhớ đình làng hồng thái, cây đa bến tan” (2)

(câu trả lời cho câu hỏi “tôi có nhớ bạn nếu tôi rời đi”)

ý nghĩa mà những người trở về muốn nhắn nhủ với những người Việt Nam dù ở xa thành phố nhưng những người thuộc các bộ kháng chiến trước đây vẫn giữ gìn và phát huy những phẩm chất tốt đẹp của người cán bộ cách mạng.

như vậy với sự biến tấu của làn điệu thứ hai, tác giả đã khép lại phần đầu của bài thơ “viet bac”. và chủ đề về lòng trung thành – trung thành với cách mạng của bài thơ “Việt bắc” đã đạt đến chiều sâu ngay trong phần đầu tiên này.

“viet bac” là một kiệt tác của tự hào nhưng cũng là một kiệt tác của thơ ca cách mạng và thơ ca kháng chiến. đoạn thơ thể hiện tài năng đa đoan của nhà thơ. thể thơ lục bát là sự bày tỏ tình cảm, ý tưởng mới mẻ của tác giả nhưng vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. lối hát đối đáp tạo nên nhạc điệu phong phú cho bài thơ. nhiều biện pháp tu từ được tác giả sử dụng tài tình. ngôn ngữ trong sáng, ý nhị, có nhiều nét đổi mới (nhất là hai đại từ ta – ta). tiếng nói của tình yêu – một đặc điểm nổi bật trong phong cách thơ của huu – không có bài hát nào xúc động hơn “viet bac”. bài thơ cũng giới thiệu những ý tưởng mới với những tiên đoán sáng suốt được thể hiện bằng hình ảnh phong phú và được tái hiện trên băng nhạc để làm say đắm lòng người.

Phân tích bài thơ Việt Nam – mẫu 4

những bài thơ nói đúng là những bài thơ nói lên tiếng nói của dân tộc, tâm hồn của một dân tộc gắn bó sâu nặng với sự nghiệp cách mạng, với quê hương đất nước. Trong những bài thơ ấy, ta sẽ tìm thấy những tình cảm sâu lắng, trữ tình, xuất phát từ tấm lòng trung thành với dân tộc và nhân dân, mà tiêu biểu nhất là bài thơ Việt Bắc, một trong những bài thơ nổi tiếng trên thế giới, hay nhất của yếu tố. .

a huu (1920-2002), tên khai sinh là nguyen duy thanh, sinh ra tại xã quang thọ, huyện quang di, tỉnh thừa kế, cái nôi của văn hóa dân gian. toan hu là nhà thơ lớn, người đi đầu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam, thơ của ông luôn gắn liền với các chặng đường cách mạng của dân tộc. lối thơ trữ tình chính trị sâu sắc, tự xưng với đời, nhiều tình, nhiều niềm, cái tôi trong thơ của họ luôn nhân danh đảng, dân tộc, bài thơ ấy giàu chất âm nhạc và mang đậm bản sắc dân tộc.

ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ thành công, chấn động địa cầu và mở ra một trang mới trong lịch sử nước ta và một thời kỳ mới. Sau khi hiệp định Geneva được ký kết (tháng 7 năm 1954), miền bắc hoàn toàn giải phóng và Pháp rút quân. Tháng 10 năm 1954, chủ tịch Hồ Chí Minh ra lệnh chuyển tất cả các cơ quan trung ương đảng và chính phủ từ Việt Bắc về thủ đô. Từ đây, những người lính cách mạng chia tay núi rừng đại ngàn để ra đi, bước sang một trang mới của cách mạng cả nước, Việt Bắc đã ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt như vậy.

Mở đầu bài thơ bằng giọng nhẹ nhàng, trữ tình, nhà thơ thể hiện tình cảm của những người còn lại đối với những người đã ra đi.

“Khi đi về, lòng tha thiết nhớ mười lăm năm ấy, khi về có nhớ cây, có nhớ núi, nhìn sông có nhớ nguồn không?

tác giả sử dụng cặp đôi “my-ta”, ở đây không nói đến cách đối xử giữa những người yêu nhau hay một cặp đôi nào đó mà là sự đối đáp của những người cách mạng đối với nhân dân miền Bắc Việt Nam. lời nói đó đồng thời mang đậm tính dân tộc và thể hiện chất trữ tình chính trị sâu sắc của bài thơ, như tiếng nói trong tình yêu đôi lứa, thể hiện tình cảm gắn bó sâu nặng của những con người sống trong cảnh xa lạ, ngậm ngùi, nhớ nhung. “mười lăm năm ấy nồng nàn, thắm thiết”, sự gắn bó ấy không chỉ trong những năm kháng chiến chống Pháp, mà cả những năm kháng chiến chống Nhật, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Bác Sơn (1940). Một thời gian dài chiến đấu nặng nề càng làm cho tình cảm giữa những người chiến sĩ cách mạng và nhân dân Việt Nam thêm thắm thiết, mặn nồng, thắm thiết. mười lăm năm là khoảng thời gian không ngắn cũng không dài nhưng cũng đủ để cảm xúc biến thành nỗi nhớ, không thể quên, như che lan viên đã từng viết “khi ta còn ở trần gian, đó chỉ là nơi để ở. / khi ta đi trần thế bỗng trở thành linh hồn “.” Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn “, và hơn hết nỗi nhớ ấy đã lan tỏa khắp núi rừng, phải một lòng yêu thương, gắn bó, sống chân thành mới có thể có được những tình cảm nồng nàn như vậy?

“giọng ai đó đang trầm tư bên bờ sông, đang uốn éo bụng, bước đi không yên, Indigo, hôm nay nắm tay nhau nói chuyện…”

từ vu vơ cho “ai”, gợi nhiều cảm xúc, ở đây “ai” có thể là người ra đi, cũng có khi là người ở lại. từ “lo lắng” được ghép từ “lo lắng” nói rõ hơn tình cảm của người ra đi và người ở lại, các từ “buồn”, “lo lắng” chứa đựng nhiều cảm xúc, có niềm vui chiến thắng, niềm vui trở về. về quê hương, đoàn tụ với gia đình; và cũng có nhiều nỗi buồn khi phải chia xa mảnh đất thấm đẫm tình người. “Áo chàm mang chia ly”, hình ảnh chiếc áo là cái gì đó cổ điển, truyền thống thể hiện sự gắn bó, là hình ảnh hoán dụ của người dân bắc việt, là chiếc áo nâu giản dị, mềm mại thể hiện vẻ đẹp tâm hồn cao đẹp của dân tộc Việt Nam. , hồn người và núi rừng Tây Bắc xin vĩnh biệt người chiến sĩ cách mạng. câu “nắm tay nhau rồi biết nói gì hôm nay…”, câu 3/4 như tạo ra một khoảng dừng giữa nỗi đau chia ly, nhìn nhau mà nghẹn ngào, ngập ngừng không biết nói điều gì, để cảm xúc ấy bâng khuâng. , len lỏi vào tâm hồn, trở thành kỷ niệm khó quên.

“Khi tôi ra đi, anh có nhớ những ngày mưa dầm dề sông suối, mây mù trở về, anh có nhớ chiến tranh với miếng cơm manh áo thấm muối, thù dai không? rừng núi lỡ ai hái trái rụng mơ để già ”.

sau mỗi cụm từ “Anh đi”, “Anh sẽ về”, nhà thơ đã tinh tế đặt dấu phẩy, đây chính là khoảnh khắc, giây phút lắng đọng để bao kỉ niệm ùa về trong tâm trí. những kỉ niệm ấy ngự trị trong từng khoảnh khắc của thời gian “ngày tháng”, không gian “chiến khu”. những hình ảnh “mưa suối”, “mây trời”, “cơm lam”, là những hình ảnh ẩn dụ về sự gian khổ của những người cách mạng trong những năm đầu kháng chiến ở núi rừng Việt Nam. Và chính những khó khăn đó đã làm cho tình quân dân thêm thắm thiết. biện pháp nhân hoá “rừng núi nhớ ai” như thổi vào cảnh vật miền núi nỗi nhớ dạt dào, sâu lắng, từ “ai” thấm đượm bao tình cảm thân thương. những cụm từ “quả rơi”, “mai già” đã thể hiện nỗi buồn sâu lắng, lặng lẽ khi những người cách mạng đi xuống, để lại núi rừng Tây Bắc bấp bênh, lạ lẫm khi nhịp sống đột ngột thay đổi. từ mùa đông vui vẻ đến cô đơn. sa mạc.

“khi anh ra đi anh có nhớ những lán lau sậy xám xịt đầy lòng không? Có nhớ núi non khi kháng nhật, khi còn ở việt minh khi anh ra đi có nhớ tan trạo của anh không?” , hong thai, nóc nhà, cây đa? ”

nỗi nhớ ấy càng được thể hiện rõ nét hơn qua từ “nhà”, nghệ thuật đối lập trong câu thơ “xám xịt cả lòng”, khẳng định một chân lý càng khó càng khó, tình quân dân của mọi người lại càng đoàn kết, thống nhất. những người ở lại nhớ lại những kỷ niệm xưa về những ngày đầu thắm thiết, về những năm tháng kháng chiến chống Nhật để những kỷ niệm ấy càng khắc sâu trong tâm hồn những người đã khuất. chữ “em” được lặp lại trong bài thơ “Anh đi anh nhớ em” gợi nhớ đến câu hát nổi tiếng “anh với em tuy hai mà một”, khẳng định tình cảm gắn bó thiết tha. những địa danh vô cùng thân thuộc đối với cả người đã khuất và người ở lại “tan phấn, hồng thai, mái đình, cây đa?” gợi lại những kỷ niệm xưa, sự hào hùng, tình cảm sâu nặng của người dân Việt Nam. các chiến sĩ cách mạng với đồng bào các dân tộc Tây Bắc.

“ta với ta, ta và lòng ta, trước sau ngỡ như ra đi, ta nhớ mình nơi cội nguồn bao tình thương mến… nhớ không gì bằng nhớ người tình trăng trên đỉnh núi. , nắng chiều, nhớ từng khói sương sớm mai, bếp lửa thân thương đi về. nhớ từng rặng tre bên bờ sông ngày lạch lê lả lơi ”

lối đối đáp “tôi-tôi” vẫn được sử dụng, cấu trúc “tôi với tôi, tôi với tôi” tạo ra một âm vang chân thành. đến đây, tôi cũng là tôi, tôi cũng như tôi. Câu thơ “Lòng ta thủy chung son sắt” đã thể hiện được tình cảm chân thật, thủy chung mà những người cách mạng dành cho mảnh đất Việt Nam, như lời thề nguyện thủy chung son sắt của một đôi trai gái. biện pháp so sánh trong câu “nguồn cội bao nhiêu tình bấy nhiêu…” đã thể hiện một điều vô cùng thiêng liêng và sâu sắc: lòng biết ơn của con người Việt Nam trong sáng, chan chứa nghĩa tình như chưa từng có. nó có thể hao mòn như tình yêu của một người mẹ dành cho những đứa con của mình. Ở đây nhà thơ đã so sánh nỗi nhớ quê hương với nỗi nhớ người yêu, để trữ tình hóa tình cảm cách mạng, tình quân dân, để mọi thứ trở nên da diết, ngọt ngào hơn. và cũng vì nỗi nhớ trong tình yêu là nỗi nhớ sâu sắc và chân thành nhất nên từ nỗi nhớ ấy hiện lên với không gian thật thơ mộng, câu thơ “trăng lên đỉnh núi, nắng chiếu lưng” thể hiện nỗi nhớ da diết. lan tỏa trong không gian và ngự trị trong mọi khoảnh khắc của thời gian, đêm và ngày. hình ảnh “sớm khuya bếp lửa yêu thương đi về”. gợi nhớ về một miền Bắc Việt Nam thân thương, nồng nàn và ấm áp. cụm từ “nhớ từng” cho ta cảm giác nhà thơ đang lật từng trang kí ức, người bạn đã liệt kê những địa danh “sông ngày, suối le” và hai tiếng khép lại bài thơ, đây rồi. Nơi đây không còn đơn thuần là nơi chốn mà là nơi đầy ắp kỉ niệm: bao đất nước, bao kỉ niệm, bao tình cảm ấm áp, ngọt ngào.

“Chúng tôi ra đi, chúng tôi nhớ về những ngày tháng rong ruổi đây đó, buồn vui lẫn lộn… thương nhau, chia nhau củ kiệu trong bát cơm, chung bữa, đắp chăn cho nhau nhớ mẹ bỏng. bằng nắng cõng con ra đồng bẻ từng lớp ngô i đồng báo khuya, đuốc sáng bên bữa tiệc nhớ sao những ngày vất vả mưu sinh vẫn hát vang núi rừng đi qua.

câu “ta ra đi, ta nhớ…” là lời tâm sự chân thành và là lời nhắn nhủ nghiêm túc của người đi người ở lại, từ người cách mạng đến mảnh đất Việt Bắc anh hùng, câu “Ta đây ta đây … ”kết hợp với“ đắng cay ngọt bùi ”càng tô đậm thêm tình cảm sâu nặng hai chữ“ thương nhau ”, thật êm dịu nhưng cũng thật sâu lắng, những con người sống“ thương nhau củ sắn ”,“ nửa bát của cơm, chăn có nhau ”đã thể hiện tình cảm quan tâm, sẻ chia. cùng quân dân, chính sức mạnh đoàn kết đã làm nên chiến công lừng lẫy một thời. Nhà thơ đã khắc họa hình ảnh người mẹ“ cưu mang con cái lên nương bẻ từng bắp ”, đây là một hình ảnh đẹp, gợi nhiều cảm xúc, từ“ bếp lửa ”giàu hình ảnh nhấn mạnh sự gian khổ của người mẹ trong kháng chiến. Tác giả sử dụng cụm từ“ nhớ những vì sao “như nỗi nhớ đầy xúc động cùng với ac các hoạt động tại chiến khu việt bắc: lớp học, dự tiệc, ca hát trên đèo, tạo không khí vui vẻ thấm nhuần tình đoàn kết quân dân, thể hiện tinh thần. của niềm lạc quan cách mạng, niềm tin tưởng rằng cách mạng nhất định thắng lợi: dù bom đạn, chiến tranh, đau thương, khó khăn, quân và dân ta vẫn đoàn kết chiến đấu, hòa mình vào nhịp điệu sôi động. bài thơ giàu nhạc điệu, là khúc ca ca ngợi lẽ sống cao đẹp, nghĩa tình còn sâu đậm trong lòng những người cách mạng và núi rừng Việt Bắc. câu thơ cuối khép lại bằng tiếng la, tiếng cối và tiếng suối xa, gợi bao cảm xúc mênh mang, thấm thía.

“Em về, anh nhắc về em nhớ hoa và người, rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi, đèo cao, nắng chiếu thắt lưng. Em nhớ đến hoa và người, rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi, đèo cao, nắng chiếu thắt lưng. Em nhớ mùa xuân, mộng trắng.” nở rừng nhớ người đan nón chuốt từng sợi rừng. Chị hái măng một mình giữa rừng thu trăng soi bình yên nhớ ai câu hát thủy chung. ”

Hình ảnh bốn bình hoa trông thật đẹp mắt là câu hỏi tu từ “có nhớ anh bên em không?” chứa đựng nhiều cảm xúc, là cái cớ để người ta ra đi thể hiện những nhớ nhung, yêu thương. câu “hoa cùng người” được kết cấu như một câu thành ngữ, trong nỗi nhớ của người đã khuất, hoa là biểu tượng của thiên nhiên, là hình ảnh đẹp và thơ mộng của thiên nhiên. Mở đầu bức tranh là mùa đông Việt Bắc, mùa đông với “hoa chuối đỏ tươi” điểm xuyết trên nền xanh bạt ngàn của núi rừng tạo nên một bức tranh vô cùng sinh động, nhiều màu sắc, tạo cảm giác ấm áp. xua tan cái lạnh tê tái trên đất Việt.

con người xuất hiện trong tư thế đang làm việc, rất đẹp đẽ và tráng lệ, con người dường như chiếm phần trên, hình ảnh được tạo ra bởi nghệ thuật nhiếp ảnh hội tụ ánh sáng. mùa xuân hiện ra với khung cảnh “hoa mơ trắng xóa” vô cùng thơ mộng, tạo nên một hình ảnh đẹp, ấm áp và lung linh, hình ảnh con người cũng trong tư thế lao động “sửa từng sợi sông”. , thể hiện sự cần cù, kiên nhẫn, tỉ mỉ trong công việc, khắc họa vẻ đẹp của con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến. rồi đến mùa hè thật sôi động và tràn đầy sức sống, khung cảnh thiên nhiên có thêm tiếng ve kêu râm ran ngoài núi và ngập tràn sắc vàng của rừng hổ phách. Hình ảnh “người chị hái măng một mình” thật đẹp và thơ mộng. khép lại khung hình là cảnh mùa thu, mùa thu thanh bình, mùa thu của cách mạng tháng Tám thành công, mùa thu năm 1954, tất cả đều được tượng trưng bằng một vầng trăng rất đẹp. câu thơ “nhớ ai khúc tình thủy chung” vừa khép lại hình ảnh tứ bình về cảnh và người Việt Bắc, vừa khép lại khúc tình ca hào hùng về cuộc kháng chiến.

trong nỗi nhớ của người ra đi và người ở lại, không thể không nhắc đến những ngày đầu của cuộc kháng chiến, đó là lúc “giặc đến giặc ngoài”, từ “tìm” đã cho thấy sự hiểm trở của quân thù “rừng núi, ta đánh tây” cùng “đất trời, ta một lòng đánh giặc” đã thể hiện tình cảm gắn bó sâu nặng của thiên nhiên và con người trong cuộc kháng chiến. ở đây, thiên nhiên đã trở thành một sinh thể có hồn, che chở cho bộ đội, bao vây kẻ thù, hình ảnh “núi non trải tường sắt dày” kết hợp với cấu trúc chồng chất “rừng che lính, rừng vây giặc”, giàu sức gợi. , giúp thể hiện sức mạnh của dân tộc, sức mạnh không gì có thể tàn phá được. Từ “nhớ” kết hợp với các điệp ngữ “nhớ chữ”, “nhớ nhung”, những địa danh gắn với chiến tích, cho ta cảm giác nhớ nhung lan tỏa khắp chiến khu Việt Bắc. lời thơ mạnh mẽ, hình ảnh thơ sinh động, cách sử dụng các biện pháp tu từ đã giúp nhà thơ khẳng định sức mạnh to lớn của dân tộc, đồng thời cũng thể hiện nỗi nhớ sâu sắc và lòng biết ơn đối với núi rừng. rừng việt bắc tràn đầy yêu thương.

“những con đường bắc việt của chúng ta đêm ầm ầm như đất rung chuyển, trùng trùng sao vũ khí mũ đỏ của công dân nandan từng đoàn từng bậc đá dăm, khói lửa bay ngàn vạn. đêm sâu trong sương mù dày đặc ánh đèn pha sáng như mai tin mừng chiến thắng trăm miền hòa bình, tây bắc, di giếng vui trở về từ đồng thap, khevui về việt bắc, đèo từ, núi hồng ”.

Câu thơ “Việt Nam ta cách trở” đã thể hiện tình cảm gắn bó sâu nặng của mảnh đất Việt Nam, của chiến khu Việt Nam với nhân dân và đất nước vì đây là quê hương cách mạng, là trái tim của cả nước trong những ngày kháng chiến người Pháp. biện pháp tu từ so sánh “như đất rung trời” kết hợp với hình ảnh “đoàn quân đi trùng điệp” đã thể hiện được sức mạnh to lớn của quân đội trên tiền tuyến, đoàn quân dường như vô tận và rất hào hùng, anh dũng. .

câu thơ “đầu súng sao đội nón” đã kết hợp ba biện pháp nghệ thuật ẩn dụ, nhân hoá, hoán dụ, hình ảnh “đầu súng” gợi hình ảnh “đầu súng”. vầng trăng treo ”trong thơ chính diện và“ vũ khí ngửi trời ”trong thơ quang dung thể hiện tầm cao của người chiến sĩ, đây là một hình ảnh đẹp và thơ. Đây là hình ảnh của một tập thể quần chúng rất kiên cường và đông đảo”. đuốc đỏ thành từng đoàn ”,“ chân đá dăm ”, điệp ngữ“ chân cứng, đá mềm ”khẳng định sức mạnh, sự kiên trung, phản kháng của con người Việt Nam trước bão táp chiến tranh trong đêm đen của chiến tranh, của chúng ta. quân và dân ta luôn hướng về ngày mai, luôn nuôi dưỡng niềm tin mãnh liệt vào một ngày mai chiến thắng, rồi cuối cùng tin vui đã đến với cả nước, những người lính về Hà Nội, về miền xuôi, nhưng trong lòng họ vẫn còn biết bao những kỉ niệm, bao tình yêu thương, họ đã mang theo niềm vui chiến thắng. chiến tranh đã kết thúc.

“có ai nhớ không? cờ đỏ thắm, gió lộng, cửa hang. trưa nắng chói chang, sao vàng trung ương bàn việc công. Ra quân thu đông chiến dịch dã chiến , giao thông được khai thông để giữ vững đê phòng, ví dụ như thu lương gửi dao vùng ngược, thêm trường học vùng khác … còn đâu nỗi u ám của kẻ thù phải đối mặt với bắc việt? Có đau thương, nòi giống nhìn về phương bắc việt nam mà ủng hộ. khi xây dựng nước cộng hòa, tôi nhớ ngôi nhà hồng thái, cây đa và cây đa mới. ”

những câu thơ cuối cùng khép lại đoạn trích là khung cảnh của những người Việt Nam sau chiến thắng của thắng lợi, khắp nơi hân hoan trong màu sắc tươi vui của nắng vàng và cờ đỏ. trung ương đảng và chính phủ thu xếp về thủ đô, trong không khí nhộn nhịp, miền bắc ngày càng đổi mới với chủ trương mới của đảng và nhà nước “giữ đê, tránh hạn, thu lương / gửi dao sang quận đối, thêm trường ca … ”. Đồng thời, bài thơ cũng là lời tri ân công lao to lớn của Bác Hồ kính yêu, lòng biết ơn sâu sắc đối với núi rừng Việt Nam thân yêu, dẫu mai sau. trở về thủ đô, nhưng trong lòng người chiến sĩ cách mạng luôn canh cánh một góc trong trái tim cho viet bac, cho “nóc nhà hồng thai, cây đa”.

Toàn bộ đoạn trích như một bản nhạc nhịp nhàng, nghiêm trang được hòa âm bởi một bản tình ca, khúc tráng ca về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, về những con người kháng chiến anh dũng. Qua bản nhạc hay và hào hùng này, nhà thơ đã thể hiện tình cảm sâu nặng, thiết tha của mình đối với núi rừng Việt Bắc, đề cao tình đồng chí, nghĩa tình. Thông qua đó, tác giả cũng nhắc nhở người đọc không quên những trang sử hào hùng của dân tộc, những trang sử đẫm máu và nước mắt, cũng là những trang sử thấm đẫm tình cách mạng và lòng yêu nước sâu sắc.

Phân tích bài viết tiếng Việt – mẫu 5

sở hữu hồn thơ dân tộc, một nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam. Có thể nói, những tác phẩm của anh không chỉ nói lên suy nghĩ, lý lẽ sống của bản thân mà qua đó chúng ta còn thấy được những sự kiện quan trọng của cách mạng nước nhà.

Tháng 10 năm 1954, sau chiến thắng ở Điện Biên Phủ, quân ta phải chuyển lực lượng ra khỏi thủ đô và tách ra khỏi chiến khu Việt Bắc. người đang yêu không khỏi xót xa tình quân dân, nghĩa tình suốt mười lăm năm kháng chiến. Nhân sự kiện trọng đại, cùng với tình cảm đó, ông đã viết bài thơ Việt Bắc.

bài thơ mở đầu của viet bac là lời tiễn biệt của những người kháng chiến và đồng bào nơi đây:

<3

Tám câu thơ đầu là khung cảnh và không khí của cuộc chia tay. luôn luôn “khi ta ở chỉ là nơi ở / khi ta ra đi, đất trở thành linh hồn”. sau bao nhiêu năm cùng nhau sống trên đất việt bắc, sống trong tình làng nghĩa xóm ấm áp tình quân dân, giờ đây những người lính đã phải lên đường. mảnh đất từng gắn kết nay phải chia lìa. Cặp đôi tự xưng là ta cho thấy sự gần gũi của những bức tranh và thị trấn.

cảm giác đó giống như những người thân trong gia đình. bốn câu thơ đầu là lời của người ở, của người Việt Nam lưu luyến hỏi người lính có còn nhớ mười lăm năm mặn nồng ấy không. Không biết những người lính đi về có còn nhớ, có nhớ về đồng bào, có nhớ núi rừng nơi đây. các chiến sĩ cách mạng ngoài việc trả lại những ân huệ đó.

Trong lòng người lính ấy còn lưu giữ những kỷ niệm về nơi này chẳng khác gì con người. những người lính dường như cảm nhận được mức độ nghiêm trọng của những câu hỏi của người dân. lòng quân bồn chồn, khắc khoải không muốn cất bước. những lời này có thể nói đã nói lên phần nào tình cảm của trái tim người lính.

nghệ thuật hoán dụ với hình ảnh “áo chàm” là để chỉ những con người Việt Nam trong màu áo lam tiễn đưa những người lính về kinh đô. một số người tay trong tay bước đi nhưng không biết nói gì. Có lẽ không cần phải nói, nhưng cả hai đều biết ý nghĩa trong trái tim nhau.

rồi trong hoàn cảnh đó, tất cả những người ở lại đều cất lên tiếng hát nhớ lại những kỷ niệm của mười lăm năm mặn nồng ấy:

“Em đi rồi, anh có nhớ những ngày… anh đi, nhớ em man mác hồng thai mái đình cây đa?”

>

vẫn tha thiết gọi mình, người bắc việt nhớ những ngày mưa lũ, cả trời đất mây mù bao phủ. Trong gian khó ấy, đồng bào luôn có những người lính ở bên. hay nếu người lính kia về anh có nhớ chiến khu hay không, chiến khu đó tuy nghèo chỉ có cơm và muối nhưng đầy tình thương và sự quan tâm của người dân nơi đây.

và trong hoàn cảnh chiến tranh khó khăn như vậy, miếng cơm manh áo ấy đã là quá đủ. tranh chấp đè nặng lên vai người lính, và người dân dường như san sẻ gánh nặng đó với người lính. Những người lính về Hà Nội vẫn nhớ núi rừng và khung trời nơi đây. và bây giờ trám mai rụng và măng đã già. những gì vốn là bản chất của viet bac đối với người chiến sĩ cách mạng thì nay người ta để cho những thứ đó về già.

Những từ ngữ được ghi nhớ lặp đi lặp lại như lời nhắn nhủ dường như còn vang mãi trong lòng mọi người, nhưng họ không muốn mất đi. đôi ta gọi mình và ta như chuyển hóa thành nhiều nghĩa, có khi chỉ là người ở lại nhưng cũng có khi là người ra đi. điều đó thể hiện tình yêu thương, sự gắn bó của người dân nơi đây đối với các chú bộ đội. những người dân dường như nắm bắt được cả thiên nhiên và con người Việt Nam bằng tình cảm của một trái tim không phai mờ. những địa danh được nhắc đến như bằng chứng cho những chiến công mà những người lính đã lập được ở đây.

Trước những lời tiễn biệt đầy thiết tha ấy, người chiến sĩ cách mạng cũng như lòng mình bày tỏ tình cảm lưu luyến:

“tôi và tôi, tôi và tôi ……..

bạn bè của bạn cũng học cách nói theo cách giống như những người ở đây. Người chiến sĩ cách mạng dù đã qua đời nhưng trong lòng anh vẫn không thể nào quên được những kỷ niệm xúc động đó. tình người ở, kẻ đi như nước trong suối. nó tràn mãi mãi. và những người lính vẫn tin vào lời thề sắt đá với nhân dân miền bắc việt nam. từng kỷ niệm gắn bó như được thuật lại trong từng câu nói của người đã khuất.

từ nhớ miếng cơm manh áo chia nửa, trùm mền. nhắc tất cả các bà các mẹ miền bắc với chiêu đưa con ra đồng hái ngô. một vẻ đẹp lao động của người dân. không chỉ vậy mà còn là những giây phút cùng nhau học chữ quốc ngữ của các nữ nhân vật.

Đó là thái độ nghiêm túc và có trật tự của mọi người. và những giờ phút hành lễ bên ánh đuốc leo lét, những ngày tháng ấy đã khắc sâu mãi mãi trong tâm trí những người đã khuất. cho đến khi trở về thủ đô gió ngàn vẫn không quên được tiếng mìn rừng chiều và tiếng cối đánh đêm khuya. Qua đây có thể thấy tấm lòng của đôi bên vô cùng ấm áp và chân thành.

Các chiến sĩ tiếp tục nói về những hình ảnh thiên nhiên hiện ra ở đây qua những câu chuyện đó, thực sự rất đẹp. những câu thơ như vẽ nên một bức tranh tứ bình nơi đây thiên nhiên bốn mùa dường như vô cùng tươi đẹp:

“Anh về rồi, em nhớ anh …….. gợi nhớ khúc ca thủy chung.”

Có thể nói, tên riêng của tôi lại một lần nữa được thay đổi, tôi là những chiến sĩ cách mạng ở đây. và tôi là những người ở lại. những người lính đó cũng hỏi những người ở lại xem họ có nhớ họ không. hỏi như vậy để thể hiện tình yêu đối với mảnh đất và con người nơi đây. Không biết họ có còn nhớ những người lính có nhớ hoa và nhớ người không.

hoa kia là để thể hiện bản chất của viet bac. Sau câu hỏi và phát biểu cảm nghĩ, các chiến sĩ nhắc đến cảnh vật, sinh hoạt của người dân Việt Nam gắn liền với bốn sắc xuân, hạ, thu, đông. nhưng nhà thơ chọn cách tả thiên nhiên và con người nơi đây vào mùa đông năm ngoái vì họ đến đây vào mùa đông và ra đi vào mùa đông. mùa đông hiện ra với hình ảnh rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi.

Con người xuất hiện với vẻ đẹp gồ ghề chinh phục thiên nhiên. Vào mùa xuân, cảnh Việt Bắc hiện lên với hình ảnh hoa mai trắng tinh khôi khắp cánh rừng, con người hiện lên với vẻ đẹp của sự cần cù lao động. Mùa xuân qua đi, mùa hè đến, thiên nhiên chuyển mình từ sắc trắng của hoa mai sang sắc vàng của rừng hổ phách.

Cô gái tự tay hái măng. vào mùa thu, thiên nhiên tràn ngập ánh sáng của trăng tròn. người lính nhớ về đồng bào bắc việt với khúc tình ca thủy chung. Như vậy, qua bao câu thơ, thiên nhiên và con người Việt Bắc hiện lên đẹp đẽ như níu bước chân người ra đi.

rồi hàng loạt địa danh gắn liền với quá trình hoạt động cách mạng của các chiến sĩ đã được nhà thơ liệt kê để truyền vào lòng mỗi chiến sĩ tình yêu thương đồng bào làm nên chiến công vang dội:

<3

Xem thêm: Drama là gì? Những điểm đăc biệt của Drama

Bản thân thiên nhiên cũng đang bảo vệ trẻ em Việt Nam. những dãy núi đá tạo thành chiến hào, thành lũy che chở cho bộ đội và nhân dân trước bom, đạn của kẻ thù. và sau đó quân đội và dân quân đã cùng nhau làm nên lịch sử. vùng lên với quyết tâm đánh giặc. mọi người quay lại nhưng vẫn nhớ những khoảnh khắc của trận chiến và những nơi đó.

và rồi không ai bảo ai, kể cả những người ra đi đều nhớ về những ngày tích cực chuẩn bị hành quân phục vụ chiến dịch chống thực dân Pháp xâm lược. Đó là điều thể hiện rõ nhất tình quân dân:

“những con đường Việt Nam của chúng ta …….

Đó là cảnh hành quân của quân và dân Việt Bắc. tất cả đều đoàn kết như một, ánh sao chỉ người lính và chiếc mũ là dân quân bắc việt. cả hai cùng tham gia vào chiến dịch dien bien phu. những nhóm dân quân với ngọn đuốc trên tay như thắp sáng cả bầu trời Việt Nam. ngọn đuốc ấy như một lý tưởng, quyết tâm chiến đấu bảo vệ đất nước và đánh đuổi quân thù.

hào quang của mọi người với sức mạnh như phá vỡ một tảng đá. bằng biện pháp nghệ thuật phóng đại sức mạnh của nhân dân ta như đã được minh chứng rõ ràng nhất. hàng nghìn đêm nay nhân dân ta phải sống trong cảnh khốn khó, cuộc sống khó khăn như đêm đen. thì hình ảnh “ngọn đèn pha” sáng lên như thể hiện một niềm tin vào tương lai tươi sáng của dân tộc ta. họ đã sống trong đau khổ để vượt qua bùn lầy và đứng lên đấu tranh cho một niềm tin vào tự do và hạnh phúc.

Những kẻ xâm lược khác sẽ phải rời bỏ đất nước ta, trả lại cho nhân dân ta cuộc sống tự do và toàn vẹn lãnh thổ. nên sau bao gian khổ, khó khăn, nhân dân ta đã toàn thắng. Tin vui đó làm tôi rất vui. của hòa bình, về phía tây bắc và ban điều tốt, và vui mừng trong chiến thắng đó. tất cả những nơi này dường như đại diện cho niềm hạnh phúc của cả đất nước.

Để chấm dứt niềm vui và nỗi nhớ không muốn vơi đi, nhà thơ đã dấy lên niềm tự hào dân tộc. đồng thời cũng có những khoảnh khắc nhớ lại cảnh sinh hoạt đảng, rất nhiều thảo luận trong hang núi:

<3

Ngày những người lính trở về miền xuôi, lòng vẫn nhớ những ngày tháng kháng chiến cùng nhau. những cuộc gặp gỡ này những niềm vui đều được thể hiện trong những câu thơ cuối cùng này. lá cờ đỏ sao vàng như minh chứng cho chiến thắng của quân dân ta.

ở đâu còn bóng dáng quân thù, ở đó có đảng và chú ho. do đó, tất cả các bạn phải nhìn về hướng Bắc và giữ vững ý chí của mình. vì chỉ khi có ý chí, chúng ta mới có thể làm được mọi việc, giành thắng lợi ngay cả khi kẻ thù có trình độ hơn mình về mọi mặt. Mười lăm năm kháng chiến sẽ còn mãi trong lòng các chiến sĩ và cả người dân nơi đây. Đau bao nhiêu thì yêu bấy nhiêu.

để nhà thơ thể hiện tình cảm của mình nói riêng và của toàn thể quân và dân Việt Nam nói chung. mười lăm năm kháng chiến với biết bao kỷ niệm mà giờ phải xa nhau, lòng tôi thật muốn bật khóc. chân không muốn rời.

qua phân tích của viet bac, chúng ta có thể thấy được tình đoàn kết gắn bó của nhân dân việt nam mà cụ thể là tình quân dân. Để đạt được những thắng lợi trên mặt trận ấy, không thể không kể đến công ơn của nhân dân Việt Bắc.

Phân tích bài viết tiếng Việt – mẫu 6

to huu (1920 – 2002) tên thật là nguyễn kim thanh, quê ở phú lai, xã quang thọ, huyện quang di, tỉnh thừa thạnh – huế. ông xuất thân trong một gia đình nhà Nho nghèo, quan tâm đến văn học. Chính truyền thống gia đình và phong cảnh thơ mộng của Huế cùng với những nét văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc đã góp phần quan trọng hình thành nên hồn thơ.

tou huu là một nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. một nhà thơ được coi là người mở đường, cánh chim đầu đàn của nền thơ ca cách mạng. Có thể nói, trong tự hào, con người chính trị và nhà thơ hòa làm một, sự nghiệp thơ ca gắn liền với sự nghiệp cách mạng, trở thành một bộ phận của sự nghiệp cách mạng. quỹ đạo thơ của ông luôn song hành với các giai đoạn cách mạng, nó phản ánh các giai đoạn cách mạng, đồng thời thể hiện sự vận động của tư tưởng và nghệ thuật của nhà thơ.

Bài thơ viet bac được tác giả sáng tác ngay trong thời kỳ quân dân ta đánh thắng giặc ở trận địa biên giới, năm 1954, khi chiến dịch điện biên phủ toàn thắng, ông đã bắt tay vào sáng tác tác phẩm này, với sự kết thúc sự nghiệp cách mạng, xây dựng cuộc sống mới. Bài thơ được coi là bài ca về lòng trung thành của Người đối với chiến sĩ, cán bộ và đồng bào đối với chiến khu Việt Bắc với cách mạng và kháng chiến, đối với Đảng và Bác Hồ.

mở đầu bài thơ là lời tiễn biệt của những người kháng chiến và đồng bào nơi đây; đó là sự chia ly của những người ra đi, những người ở lại đầy ắp nỗi nhớ và nỗi niềm:

Khi trở lại với chính mình, tôi nhớ mãi về bản thân mình trong suốt mười lăm năm đó. khi về có nhớ trông cây, nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn? Tiếng ai trầm tư bên cồn sầu trong bụng, bước đi bâng khuâng, áo chàm đưa lễ chia ly. , nắm lấy bàn tay, tôi biết phải nói gì hôm nay …

hai khổ thơ nói lên tình quân dân thắm thiết. họ đã có “mười lăm năm” gắn bó, “mặn nồng” bên nhau. mười lăm năm – một quãng thời gian dài, biết bao kỷ niệm. họ cùng vào sinh ra tử, cùng sống, cùng chiến đấu vì đất nước. trên mảnh đất Việt Bắc ấy, tình quân dân thắm thiết, thắm thiết. nhà thơ dùng hai ngôi “ta” và “ta” để thể hiện sự lưu luyến gắn bó với nhau, tuy hai ta mà một. cảm giác đó giống như cảm giác của các thành viên trong gia đình tôi.

bốn câu thơ đầu là lời của người ở, của người Việt Nam lưu luyến hỏi người lính có còn nhớ mười lăm năm mặn nồng ấy không. Không biết những người lính trở về có còn nhớ, có nhớ dân, nhớ núi nơi đây không.

và trong bốn câu thơ sau, các chiến sĩ cách mạng cũng đáp lại ân tình của nhân dân Việt Bắc. trong lòng người lính còn lưu giữ những kỷ niệm về nơi đây không khác gì người dân. những người lính dường như cảm nhận được mức độ nghiêm trọng của những câu hỏi của người dân. lòng quân bồn chồn, khắc khoải không muốn cất bước. những lời này có thể nói đã nói lên phần nào tâm tư tình cảm của người lính. nghệ thuật hoán dụ với hình ảnh “chiếc áo chàm” là để chỉ những người dân Việt Nam mặc chiếc áo ấy để tiễn đưa những người lính về kinh đô. một số người tay trong tay bước đi nhưng không biết nói gì. Có lẽ không cần phải nói, nhưng cả hai đều biết ý nghĩa trong trái tim nhau. dường như tất cả sự gắn bó đều nằm trong cái bắt tay trìu mến đó.

khổ thơ thứ ba, vẫn là nỗi lòng của những người ở lại:

Khi ra đi, anh có nhớ những ngày mưa dầm dề sông suối mây sương, anh về, anh có nhớ chiến khu có miếng cơm manh áo, chiến đấu nặng nhọc không? khi ta trở về, núi rừng có nhớ kẻ đầy bùn rơi, mai làm ta già, ta có nhớ những ngôi nhà xám xịt, đầy lòng ta có nhớ núi non khi kháng Nhật, khi ta. còn ở việt minh ta đi, anh có nhớ em mới hồng thai, mái đình cây đa?

bài thơ như lời tâm tình đau xót của người dân Việt Nam đối với những người lính và đó cũng là lời nhắc nhở dành cho những người đã khuất. từ “nhớ” được lặp lại mang nhiều sắc thái ý nghĩa: nhớ là nỗi nhớ, là lời nhắc nhở. hàng loạt câu hỏi tu từ thể hiện tình cảm sâu nặng của người Việt Bắc. nỗi nhớ của người gửi, gửi nỗi nhớ, gửi yêu thương như sau:

Bạn có lỡ cập bến khi tàu quay trở lại, rồi khăng khăng đợi tàu không?

viet bac nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ không quên những năm tháng gian khổ, tác chiến trong điều kiện vật tư, trang bị thô sơ, thiếu thốn. đó là những tháng ngày cùng chịu đựng những điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt: “mưa nguồn”, “suối lũ”, mây mù; hay những ngày vất vả với bát cơm chấm muối mà vẫn chan chứa biết bao yêu thương.

<3

Tôi về rồi, núi rừng nhớ oitra rụng, mai già.

hình ảnh “mơ nhồi rơi, mơ già” gợi lên nỗi buồn vắng vẻ – “mùa thu nhồi, măng già” chưa ai hái. nỗi buồn như một cú thúc trong lòng những người ở lại.

Anh ấy tiếp lửa mọi người sau chiến thắng và chính ở phía dưới của chiến thắng đó, nỗi buồn trở nên tinh khiết. viet bac vẫn “kiên quyết đợi tàu”, đồng thời khéo léo ghi nhớ “tấm lòng” của người cán bộ, chiến sĩ. Xin đừng quên thời kỳ “kháng Nhật, thời Việt Minh”, đừng quên cội nguồn cách mạng, đừng quên chăm lo cho sự nghiệp cách mạng.

Anh đi rồi, em nhớ mình quá trạo, hồng thai mái đình cây đa.

bài thơ trước là nỗi nhớ, nỗi niềm viet bac. đoạn thơ trên tiêu biểu cho sắc thái của phong cách tiểu học, giọng điệu thơ ngọt ngào, truyền cảm, mang đậm phong vị dân gian. văn học dân gian, đề cập đến con người và cuộc sống kháng chiến. Qua hình tượng Việt Bắc, tác giả đã tôn lên phẩm chất cách mạng cao quý của quân và dân ta, khẳng định nghĩa khí thủy chung của cán bộ, chiến sĩ đối với Việt Bắc.

khúc ca hào hùng của một dân tộc quyết thắng sau hơn ba nghìn ngày xương máu.

Để đáp lại sự ưu ái của những người ở lại, lời nói của những người ra đi cũng nghiêm túc không kém:

tôi và tôi, bạn và tôi, lòng ta mặn nồng trước sau, ngỡ mình sẽ đi, nhớ về cội nguồn bao tình nghĩa thủy chung … nhớ gì chẳng bằng nhớ trăng yêu thương đi lên đỉnh núi, nắng chiều nàng nhớ từng làn khói sương sớm khuya khi người tình bếp lửa về nhà. Em nhớ từng rặng tre, lũy tre, dòng sông ngày nào, suối lê đầy em, em nhớ những tháng ngày ta còn nơi đây, đắng cay, ngọt bùi … thương nhau, chia nhau củ sắn, chia nhau đĩa cơm. , chăn màn cùng nhau bữa cơm nhớ người mẹ đội nắng lưng còng dắt đàn con ra đồng bẻ từng bắp ngô. họ nhớ tại sao lớp báo đồng lại vào buổi sáng muộn trong kỳ nghỉ. họ nhớ vì sao những ngày khó khăn cơ quan vẫn hát vượt núi. nhớ sao tiếng mõm rừng chiều đêm va vào cối xa không ngớt …

Người ra đi, người ta nói tin rằng lòng mình trước sau luôn thủy chung, luôn mặn nồng. và cảm giác đó cũng được so sánh với nước trong đài phun, dồi dào, vô tận, vô tận. và những người lính vẫn tin vào lời thề sắt đá với nhân dân miền bắc việt nam. từng kỷ niệm gắn bó như được thuật lại trong từng câu nói của người đã khuất. của nỗi nhớ bát cơm chia nửa, chăn đắp. nhắc tất cả các bà các mẹ miền bắc với chiêu đưa con ra đồng hái ngô. một vẻ đẹp lao động của người dân. không những thế còn là những giây phút cùng nhau học chữ quốc ngữ. đó là thái độ nghiêm túc và có trật tự của tất cả. và những giờ phút hành lễ bên ánh đuốc leo lét, những ngày tháng ấy đã khắc sâu mãi mãi trong tâm trí những người đã khuất. cho đến khi trở về thủ đô gió ngàn vẫn không quên được tiếng mìn rừng chiều và tiếng cối đánh đêm khuya. Qua đây có thể thấy tấm lòng của đôi bên vô cùng ấm áp và chân thành.

Những người lính tiếp tục nói về những hình ảnh thiên nhiên hiện ra ở đây qua những câu chuyện này, chúng thực sự rất đẹp. những câu thơ như vẽ nên một bức tranh tứ bình nơi đây thiên nhiên bốn mùa dường như vô cùng đẹp đẽ:

Tôi đã trở lại, bạn có nhớ tôi không? trên mình nhớ hoa và người rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi, bước cao, ánh dao, dao thắt lưng. ngày xuân mơ nở trắng rừng nhớ người đan nón dệt từng sợi, tiếng hát gọi rừng đổ vàng nhớ em gái hái măng một mình, rừng thu trăng soi hòa, nhớ tiếng hát ai. tình yêu chung thủy là.

Có thể nói, con người, cảnh vật thiên nhiên núi rừng Việt Bắc đã khắc sâu trong tâm hồn người chiến sĩ cách mạng. khi trở lại thủ đô, họ nhớ mọi thứ liên quan đến viet bac. Đó là những con người chân chất, hiền lành của núi rừng: em gái hái măng một mình, đó là cảnh sắc thiên nhiên Việt Bắc đẹp đẽ, hùng vĩ. Đây có lẽ là bài thơ hay và trữ tình nhất của ca dao Việt Nam.

rồi không ai bảo ai, kể cả những người ra đi đều nhớ về những ngày tích cực chuẩn bị hành quân đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược. Đó là điều thể hiện rõ nhất tình quân dân:

nhớ rằng khi giặc đến xâm chiếm rừng, chúng ta chống núi và đánh tây, giăng rào sắt dày để che chở cho quân rừng, bao vây địch, bốn bề là sương mù bao phủ, và của chúng ta. đất và toàn bộ chiến khu của chúng ta đã một lòng. ai đi ai nhớ khi về ta nhớ rừng thông, đèo giang nhắc sông Lô, phố nhớ từ cao lang đến nhị hà …

Đó là những tháng ngày quân và dân vào sinh ra tử, cùng nhau đánh giặc. những ngày đó, núi rừng Việt Bắc đã che chở cho bộ đội trước vòng vây của kẻ thù, nhân dân Việt Bắc đã sát cánh, đoàn kết, giúp đỡ, chia ngọt sẻ bùi với bộ đội. hơn bao giờ hết, tình quân dân thắm thiết biết bao. một lần nữa, những người lính khẳng định tình cảm sắt son của mình qua hai chữ “nhớ nhung”. mọi người sẽ nhớ: phủ thông, giang đèo, sông lộ, phố cổ, cao lang, nhì hà nội.

Phân tích bài viết tiếng Việt – mẫu 7

Đất nước Việt Nam bao năm đấu tranh giữ gìn độc lập, tự do, có những con người âm thầm đóng góp tinh thần cho cuộc đấu tranh qua thơ ca và văn xuôi. Trong số các tác phẩm văn học đó có bài thơ Tiếng Việt bac de to huu. tác phẩm là tấm lòng chân thành trong bữa tiệc chia tay đầy tình cảm giữa nhân dân Việt Nam và những người cán bộ cách mạng.

to huu những bài thơ hay được sáng tác vào những mốc thời gian của lịch sử cách mạng Việt Nam. bài thơ “việt bắc” – kiệt tác của huu công, được sáng tác vào một thời điểm quan trọng đối với đất nước.

bạn là một nhà thơ-chiến sĩ. ông làm thơ trên hết là vì sự nghiệp của dân tộc và của đảng. thơ ông thể hiện lý lẽ sống, tình cảm và niềm vui lớn của đất nước, cách mạng. Cảm hứng trong bài thơ đúng là hướng về nhân dân, về cách mạng, về lịch sử hào hùng của dân tộc chứ không phải về đời tư của tác giả.

Năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, hòa bình lập lại. Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, cán bộ, chiến sĩ rời Việt Nam trở về thủ đô Hà Nội. Trong không khí chia tay đầy hoài niệm, nhớ nhung giữa nhân dân Việt Bắc và người cán bộ cách mạng, nhà thơ Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc”.

viet bac được thành lập vào tháng 12 năm 1945 nhân sự kiện lịch sử trung ương đảng và chính phủ rời chiến khu về Hà Nội. Thơ văn việt bắc là đỉnh cao của thơ phú và cũng là một thành tựu quan trọng, đóng góp to lớn cho nền thơ ca kháng chiến chống Pháp.

Phân tích bài thơ Việt Bắc ta sẽ thấy được tình cảm khăng khít giữa người ra đi và người ở lại, giữa miền xuôi và miền cao, giữa người cán bộ Thủ đô kháng chiến và con người Việt Nam.

với nhãn quan của một nhà thơ cách mạng, một nhà tư tưởng, một người bạn đã phản ánh sâu sắc hiện thực cuộc kháng chiến mười lăm năm kháng chiến của Việt Nam và dự báo những diễn biến tư tưởng trong thời bình.

Tình yêu thiên nhiên, đất nước qua phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu đã được thể hiện sâu sắc qua sự gắn bó với núi rừng Việt Nam qua bao năm tháng đấu tranh của đồng bào nơi đây. cảm giác gắn bó thân thiết như những người ruột thịt.

nỗi nhớ của tác giả là nỗi nhớ về một bức tranh sắp trở về từ phương bắc. hình ảnh việt bắc tưởng chừng rất mộc mạc nhưng đã bao trùm nỗi nhớ quê hương.

là hình ảnh “trăng trên đỉnh núi, mặt trời trên lưng núi”, những hình ảnh làng quê mờ ảo trong sương mù, ngọn lửa hồng ban đêm thắp sáng, hay “rừng trúc, ngọn sông, sông trong nền ”, tiếng“ máy cày, cối đập đều đều ”… tất cả những nét đẹp bình dị của một vùng rừng núi hoang vu nhưng vẫn ấm áp nghĩa tình, nhất là tấm lòng của những con người nơi đây. ấn tượng tuyệt vời. đáng nhớ nhất, quan trọng nhất.

Tôi về, tôi nhớ mình, nhớ hoa và người, rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi, đèo cao, nắng vàng thắt lưng. ngày xuân mơ nở trắng rừng nhớ người đan nón đan từng sợi. Nhớ em gái hái tre một mình, trong rừng thu trăng soi bóng bình yên, nhớ ai câu hát ân tình thủy chung.

phần tử tốt sử dụng thành công phản hồi “i”, “i”. “Tôi sẽ trở lại, hãy nhớ tôi. Tôi về, tôi sẽ nhắc bạn về những bông hoa.” nỗi nhớ khó quên, không cam lòng xa nơi mình từng yêu thương, trân trọng biết bao kỷ niệm, đã sống và chiến đấu cùng nhân dân. Tác giả ấn tượng về con người Việt Nam cần cù lao động, thủy chung trong tình yêu.

do đó thể hiện bản chất của Việt Nam với những cảnh đẹp phong phú và đa dạng thay đổi theo từng mùa. Gắn liền với khung cảnh tươi đẹp này là những con người chân chất, giản dị làm ruộng, trồng khoai, trồng hoa… nhưng tất cả đã góp công, góp sức, chung tay góp sức, chung sức vươn lên thành công. kháng chiến lâu dài.

trong dòng hồi tưởng của yếu tố viet bac, đó là hình ảnh những “mái nhà” lau sậy xám xịt, chan chứa yêu thương ”, hình ảnh người mẹ“ dắt con ra đồng bẻ từng bắp ”.

trang>

yêu nhau, chia củ sắn và bát cơm, chung chăn.

câu thơ trữ tình vang dội tạo nên tình cảm thắm thiết gắn bó tình người.

Những hình ảnh chiến đấu anh dũng, những hoạt động sôi nổi và tinh thần chiến đấu oanh liệt vang lên trong những câu thơ phân tích sử thi Việt Bắc được miêu tả một cách sử thi. .

những con đường bắc việt của chúng ta về đêm ầm ầm như đất rung chuyển, trùng trùng ánh sao trên đầu súng, mũ đỏ nandan, đuốc, từng đoàn bước chân, đá vụn, ngàn ngọn lửa bay.

một dân tộc đã vượt qua muôn vàn khó khăn, hy sinh đã lập nên những chiến công, kỳ tích: phủ thông, giang san, sông lo, hòa bình, tây bắc, biên cương … du hí càng đào sâu để giải quyết vấn đề. yêu mến nguồn sức mạnh chung để giành được những chiến thắng vẻ vang đó.

Đó là sức mạnh của toàn dân, toàn dân kháng chiến, là sự gắn bó giữa con người với thiên nhiên:

còn nhớ khi giặc đến xâm chiếm rừng núi, đá ta cùng nhau đánh tây đồn lũy sắt, rừng che bộ đội, rừng vây giặc, bốn bề tứ bề là sương mù bao la. và trái đất và bầu trời của chúng ta đều là vùng chiến sự trong một trái tim.

với những vần thơ trang trọng và nghiêm túc, tou làm đã nhấn mạnh hình ảnh và vai trò của người Việt Nam đối với cách mạng. nơi đây như quê hương, chiến khu đã nuôi dưỡng sức mạnh trong cuộc kháng chiến lâu dài của nhân dân ta:

khi anh về em có nhớ núi non, thuở kháng nhật, thuở còn việt minh khi anh ra đi có nhớ tan trạo, hồng thái, mái đình long, cái cây đa?

những bài thơ mang đậm chất trữ tình, ca dao sâu sắc về tình cảm dân tộc. Trong cuộc kháng chiến vĩ đại ấy, có người bác ruột khai sáng, có “trung quân, chính quốc bàn việc công”, những con người tài hoa, lý tưởng cao đẹp, đường lối ngay thẳng, sáng suốt đã lập nên chiến thắng.

nơi nào có đau thương, họ tìm về với người việt bắc trụ vững mười lăm năm trời quên quê hương cách mạng dựng nước cộng hòa

Xem Thêm : Soạn bài Việt Bắc phần 2 ngắn gọn nhất | Soạn văn 12

Từ khi yêu Việt Bắc, đồng chí luôn vững tin vào ngày mai tươi sáng, tin tưởng vào sức mạnh toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ. nhà thơ đã vẽ nên một bức tranh đẹp của dân tộc:

ngày mai anh ấy bận sơn sửa lên xuống đường ray xe lửa, bốn phía lưới đều phấn son, cái lon cao vừa tầm

những hình ảnh chính là ước mơ, khát vọng không chỉ của cán bộ kháng chiến mà còn của nhân dân, tác giả không quên cái cũ lấy cái mới, luôn nghĩ cho nhau giữa miền xuôi và miền xuôi.

Tôi đang đi đến thành phố xa, tôi có còn nhìn thấy núi đồi không? Bạn có còn nhớ thị trấn sáng đèn không?

Đây cũng là những lời tác giả nhắn nhủ đừng để ngoại cảnh thay đổi, khi trở về thủ đô sẽ quên đi tình xưa. Cho đến ngày nay, câu chữ của nhà thơ vẫn giữ nguyên những giá trị đó.

hai câu thơ tạo nên mối quan hệ đối lập giữa bóng tối và ánh sáng: nếu câu trên miêu tả bóng tối sâu thẳm, gợi lên cuộc sống nô lệ của cả dân tộc dưới ách thống trị của kẻ thù thì câu dưới là ánh sáng của niềm tin ở một ngày mai chiến thắng vẻ vang, một tương lai tốt đẹp. Thực ra, trong câu thơ trên, người ta có thể thấy sự tương phản này: thành tố đã sử dụng cả một hệ thống từ chỉ ánh sáng như ánh sao, đuốc đỏ, lửa bay, trái ngược với một hệ thống chỉ bóng tối, chẳng hạn như đêm, đêm, nghìn đêm, sâu thẳm – với khuynh hướng ánh sáng lấn át bóng tối, dường như tác giả có dụng ý làm nổi bật khuynh hướng chống lại mọi kẻ thù đen tối của dân tộc ta, đồng thời khẳng định những ngày tươi sáng, hạnh phúc nhất định sẽ đến với thị xã chúng ta.

Có những tác phẩm văn học chỉ giúp chúng ta nhìn thấy một phần nhỏ của cuộc sống hoặc nói về một nhân vật cụ thể, nhưng với bài thơ Việt Bắc, chúng ta có thể thấy được bức tranh toàn cảnh của cả dân tộc Việt Nam. cả bài thơ như một bản nhạc nhịp nhàng, êm ái, nghiêm trang, được viết như một bản tình ca, khúc tráng ca về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, về những con người đã hy sinh quên mình vì độc lập, tự do của Tổ quốc. . Qua bài thơ Việt Bắc, tác giả còn thể hiện tấm lòng thành kính với đồng bào Việt Bắc, những cán bộ cách mạng hết lòng vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. bài thơ cũng nhắc nhở lớp trẻ chúng ta nhớ đến công lao của các anh hùng cứu nước, những trang sử hào hùng của máu và nước.

Phân tích bài viết tiếng Việt – mẫu 8

tou huu được mệnh danh là ngọn cờ đầu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. hồn thơ là sự kết hợp hài hoà giữa cuộc đời cách mạng và cuộc đời thơ. do đó, đọc tác phẩm thơ của tác giả mới cảm nhận được những dấu mốc lịch sử quan trọng của đất nước. Nói đến tác phẩm thơ, có người đã ví chúng như một thước phim quay chậm về lịch sử vẻ vang của dân tộc. “Viet bac” là một trong những bài thơ đó.

“viet bac” được sáng tác vào năm 1954 khi cuộc kháng chiến chống Pháp vừa kết thúc thắng lợi. Đây là thời điểm các cơ quan trung ương của đảng và chính phủ Việt Nam trở về Hà Nội. người bạn đã tái hiện lại cuộc chia tay đầy luyến tiếc giữa cán bộ và nhân dân Việt Bắc sau một thời gian dài sống, chiến đấu và chịu đựng mọi nghịch cảnh. Trong bài thơ, tác giả sử dụng thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc, kết hợp với những câu hò đối đáp như những làn điệu dân ca để tái hiện lại cuộc chia tay đầy lưu luyến giữa các chiến sĩ cách mạng và nhân dân Việt Bắc.<3

“Khi trở lại, anh có nhớ mười lăm năm ấy với tình yêu nồng cháy dành cho em, anh có nhớ nhìn cây, nhớ núi, nhìn sông, nhớ nguồn?”

Câu mở đầu giống như lời chia tay đầy tình cảm nhưng sâu sắc của các cặp đôi. nhà thơ đã khéo léo mượn màu tình yêu để nói lên tình yêu cách mạng. cách sắp xếp từ ngữ, “yo” ở đầu câu thơ, “ta” ở cuối câu thơ, cũng gián tiếp thể hiện sự xa cách và khao khát. từ “nhớ” được lặp lại ba lần, mở ra dòng cảm xúc nhớ nhung, nhớ nhung và biết ơn trong suốt bài thơ.

đáp lại tấm lòng của người ở lại, người ra đi cũng thể hiện tình cảm của mình:

“Còn nhớ khi giặc đến xâm chiếm rừng, chúng ta cùng nhau chống núi giăng pháo đài sắt, rừng che quân rừng bao vây quân thù”

Tiếng lòng của người ở lại khiến người ra đi không khỏi bồi hồi, xao xuyến. tất cả những điều này đã đánh thức nhiều kỷ niệm khó quên trong tâm trí người lính. cảm giác ấy khiến cuộc chia ly trở nên đau đớn, lưu luyến. nó giống như một sợi dây kéo con người ra vào. Mười lăm năm dài đã gắn kết mọi người lại với nhau. họ đã sống cùng nhau, cùng nhau trải qua bao khó khăn vất vả, cùng nhau chia sẻ miếng cơm, manh áo để lúc chia xa, cảm xúc trào dâng thành lời:

“Tôi và tôi, tôi và trái tim tôi, chúng tôi luôn hài lòng”

Lúc này, “tôi và tôi” – “tôi và tôi” dường như hòa làm một, cộng hưởng với nhau thành một khối thống nhất và không thể tách rời. hai chữ “ding” như một lời khẳng định chắc chắn về tình cảm mà người đã khuất dành cho những người còn lại. đó là tình cảm thiêng liêng và cao quý không gì thay thế được.

Trở về với cuộc sống đô thị, rời xa Việt Bắc, những cán bộ, chiến sĩ mang theo nỗi nhớ núi rừng, những ngày tháng gian khổ, những kỷ niệm của cuộc kháng chiến gian khổ mà nghĩa tình. hình ảnh tứ bình với nhiều màu sắc đã thể hiện sinh động hình ảnh núi rừng với những hình ảnh gần gũi, thân quen. trong bức tranh đó là màu xanh của núi rừng, màu đỏ của hoa chuối, màu trắng tinh khôi của hoa mơ. không chỉ có màu sắc, bức tranh còn rộn ràng tiếng ve kêu mà còn có ánh sáng rực rỡ của ánh trăng êm dịu. trong bức tranh sống động ấy, hình ảnh con người được hiện lên qua hình ảnh người lao động khỏe mạnh: “nhớ người đan nón đánh bóng từng sợi chỉ”, “nhớ người chị nhổ tre một mình”. hình ảnh những con người hiện lên thật bình dị, mộc mạc giữa núi rừng. Những hình ảnh thiên nhiên và lao động đầy màu sắc đã tạo nên một bài thơ trữ tình nhất Việt Bắc.

Trong nỗi nhớ của mình, tác giả không chỉ nhớ về thiên nhiên, con người mà còn nhớ về những năm tháng chiến đấu ác liệt:

“Còn nhớ khi giặc đến xâm chiếm rừng, chúng ta cùng nhau chống núi giăng pháo đài sắt, rừng che quân rừng bao vây quân thù”

Giọng điệu nghiêm túc đã chuyển sang giọng anh hùng và tràn đầy năng lượng. Các yếu tố đã nhân hóa núi rừng Việt Bắc để biến chúng thành một hồn có hồn, là bức tường thành vững chắc bảo vệ nhân dân Việt Nam và cán bộ kháng chiến khỏi vòng vây của kẻ thù. thì viet bac cũng xuất hiện với những thao tác hấp dẫn. Cuối bài thơ, người lữ khách trả lời câu hỏi của cư dân:

“Mỗi khi về lại nhớ đình hồng thái, cây tân tự ban”

Thông qua lời hồi đáp này, người lữ hành muốn nhắn gửi đến những người ở lại rằng dù cuộc sống nơi đô thị phồn hoa, no đủ nhưng tình người nơi đây sẽ mãi mãi vẹn nguyên. như vậy tác giả đã khép lại bài thơ bằng tấm lòng chân thành của người ở lại. cấu trúc nhà ga tương ứng này một lần nữa khẳng định tấm lòng chung thủy và đầy màu sắc của những người tham dự và cư dân.

Người ta gọi “viet bac” là một điển hình của thơ ca cách mạng vì nó là sự kết hợp giữa trữ tình và chính luận. Không chỉ vậy, bài thơ còn thể hiện rõ tính dân tộc qua việc sử dụng thể thơ lục bát và lối hát đối đáp quen thuộc, giản dị, gần gũi. Chính vì những điều đó mà bài thơ đã gợi lên tình cảm cao quý nhất của truyền thống dân tộc, đó là lòng thuỷ chung.

“viet bac” không chỉ là một câu chuyện nhỏ mà chứa đựng một câu chuyện lớn. không chỉ thuật lại cuộc chia tay giữa người cán bộ kháng chiến với đồng bào Việt Nam mà còn cho người đọc thấy được mười lăm năm đấu tranh gian khổ, gian khổ và anh dũng của dân tộc. Chính vì vậy mà trong nhiều năm qua, Việt Bắc luôn có một vị trí nhất định trong tâm trí người đọc.

Phân tích bài viết tiếng Việt – mẫu 9

Sau chiến thắng lừng lẫy trên chiến trường Điện Biên Phủ (7/5/1954), Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương được ký kết, miền Bắc nước ta được giải phóng, mở ra một trang mới trong lịch sử đất nước và một trang mới. giai đoạn của cuộc cách mạng.

Tháng 10 năm 1954, các cơ quan trung ương của đảng và chính phủ rời chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội. Nhân sự kiện lịch sử trọng đại này, nhà thơ Tố Hữu đã sáng tác bài văn tế Việt Bắc. Đây là một bài thơ dài, gồm 152 dòng được viết theo thể lục bát. Hầu hết các bài thơ đều miêu tả về một thời kỳ cách mạng và kháng chiến gian khổ, oanh liệt ở chiến khu Việt Bắc, nay đã trở thành kỷ niệm sâu sắc trong lòng người. Phần tiếp theo, tác giả nói về sự gắn bó máu thịt giữa vùng cao và miền xuôi trong một viễn cảnh hòa bình, tươi sáng của đất nước và kết thúc bằng lời ca ngợi công lao của Bác Hồ và Đảng đối với dân tộc. Có ý kiến ​​cho rằng: Việt bắc là đỉnh cao của thơ phú và là tác phẩm xuất sắc của văn học Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

lời văn trong sách giáo khoa được trích từ phần đầu của bài thơ việt bắc:

Bạn có nhớ mười lăm năm về mình, nhớ cây, nhớ núi, nhìn sông, nhớ nguồn?

Với hình thức cấu trúc câu hỏi và câu trả lời, người đọc liên tưởng đến một hình thức quen thuộc trong các bài hát nổi tiếng: Khi anh về có nhớ em không? khi về thì nhớ răng cười… nhưng ở cảnh này, dường như nhà thơ chỉ mượn hình thức của những bài ca dao, còn nội dung thì đổi mới từ quan hệ tình cảm lên một tầm cao mới: ý thức về cội nguồn. nên cái nhớ duy nhất ở đây trước hết là nhớ về cội nguồn – cội nguồn của tình cảm trong những năm tháng kháng chiến gian khổ: Chàm cho người chia ly, nắm tay nhau rồi biết nói gì hôm nay… nỗi nhớ trước cuộc chia ly sao. có đau không, sao lại đau lòng quá! nó không phải là một sự ngẫu nhiên, và nó không phải là không có lý do. Trong giây phút thiêng liêng ấy, mọi kỉ niệm như ùa về, nhất là kỉ niệm đã từng ở bên nhau: Em nhớ những ngày anh đi. mưa, suối, lũ, mây và sương mù … tất cả thiên nhiên, cảnh vật và con người miền Bắc Việt Nam dường như đã ngừng trôi. Trong một khổ thơ gồm 14 dòng đan xen các sự kiện “me voy” – “me volvo”, tác giả sử dụng một cấu trúc rất đặc biệt: mỗi câu thơ (sáu chữ) “me voy” tương ứng với một câu sau “I’m back”, và cả tám câu (tám chữ) đều có sự cân đối về hình ảnh và nhịp điệu rất hài hòa:

– mưa từ sông suối // mây có sương mù

– miếng cơm manh áo // chiến đấu hết mình

– bổi để rụng // măng đã già

– buzz xám // đầy son môi

– hãy nhớ khi bạn chống lại người Nhật // khi chúng ta còn ở Việt minh

Xem thêm: Thuyết minh về tác giả Kim Lân và tác phẩm Làng – Trần Bảo Việt

các cụm từ màu xanh lá cây “đi” – “về” thay thế và tám cụm từ được chia thành hai bên, được phân tách bằng dấu phẩy (,) … tạo ra sự cân bằng phản ứng nhịp nhàng như thể trên cùng một vai, trong cùng lý tưởng của cùng một chủ thể. đặc biệt là câu tôi đã viết, tôi nhớ rằng tôi là sự hòa hợp giữa hình ảnh của chúng tôi và chính tôi đến mức đồng nhất.

trong câu tiếp theo:

tôi với tôi, tôi với tôi, trái tim tôi luôn kiên định …,

sự đảo ngược (ba phần ba được ngắt câu lục) và sự đảo ngược, hai đối tượng tự thân: ta càng gắn bó với nhau, để nỗi nhớ lan tỏa thêm ba nỗi nhớ ở đây (nỗi nhớ giữa người đi và kẻ ở ) cũng được so sánh với nỗi nhớ của những người đang yêu – một cung bậc thiêng liêng và thơ mộng nhất của con người, gắn liền với mọi cảnh vật và cuộc sống thường ngày: luôn trèo lên đỉnh núi, mặt trời chiếu xuống. , bản khói sương, sớm khuya, bếp lửa và lời nhắn nhủ: nhớ từng người … như lớn dần, cụ thể. hàng chục lần nhắc đến nỗi nhớ, gắn với những sự kiện, con người cụ thể, ý nghĩa của nỗi nhớ không hẳn giống nhau. nỗi nhớ nhà đối với bạn học, nhớ lớp học, cơ quan, nhớ nhà đời thường rất đặc trưng ở miền núi: nhớ sao tiếng mõm rừng buổi trưa, tiếng vồ đập vào cối đêm, tất cả đều giống nhau … tiếng đàn trâu, tiếng búa đập lúa nơi con nước dường như vẫn còn vang vọng, dường như vẫn còn thấm đẫm hình ảnh viet bac. Nó vẫn chưa hết! nỗi nhớ còn in dấu hoa cùng người, rừng xanh hoa chuối, mai trắng nở rừng; người làm nón, chị hái măng… hàng: rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi, đèo cao trong nắng có ánh dao thắt lưng là dòng “dặt dẹo”, vượt quá mức của một câu miêu tả, trải dài. đến sự tài hoa trong nghệ thuật phối màu xanh của rừng (màu nền) và hoa chuối, đỏ tươi, đặc biệt là sự phản chiếu rực rỡ bên kia đèo. hình ảnh thiên nhiên: con người nơi đây bỗng có hồn, bừng sáng, lay động. Đó cũng là lời nhắn nhủ đến tình cảm của người ra đi và người ở lại: khi trở về sẽ nhớ về nhau, khi trở về sẽ nhớ về… nỗi nhớ khôn nguôi về quá khứ, những gì đã trải qua: những rừng thông. , đèo giang, sông lo, phố nang …; nỗi nhớ như một sợi dây tình cảm bền chặt: nhớ cao lang, nhớ nhị hà …. nỗi nhớ ấy được chuyển từ chủ thể sang đối tượng: ai nhớ ai? trong nỗi nhớ, không chỉ cảnh và người, không chỉ thiên nhiên và sinh hoạt – trong nỗi nhớ, âm hưởng vang dội của cuộc hành quân ái quốc vẫn vẹn nguyên:

Những con đường Việt Bắc của chúng ta đêm ngày ầm ầm rung động đất trời trùng điệp. ánh sao trên đầu vũ khí của bạn và chiếc mũ đỏ của nandan, ngọn đuốc đỏ, từng nhóm bậc thang, những tảng đá vụn và tất cả những ngọn lửa bay …

không phải một con đường, mà là nhiều con đường Việt Nam, tiếng bước chân đoàn quân rạo rực hòa cùng. các câu thơ được nối với nhau qua phép điệp (trùng điệp), qua hình ảnh thơ kéo dài vô tận: trùng điệp – ánh sao – nón lá – công dân… tạo nên sức mạnh tổng hợp, phá cách nhấn chìm. kẻ thù: bước chân nát bươm và ngọn lửa bay. một loạt các động từ mạnh được sử dụng để mô tả sự toàn vẹn dâng trào dữ dội. nếu ở câu thơ trước, nỗi nhớ tạo nên một liên khúc chiến thắng vang dội:

tin vui chiến thắng trăm miền hòa bình, tây bắc, dien thoai vui ve dong thap, an khevui den viet bac, đèo hồng

Niềm vui chiến thắng dường như tràn vào giới hạn của câu thơ, tràn ngập khoảng trống giữa các từ và các câu thơ … ad infinitum!

Niềm vui khôn xiết, nỗi nhớ trở về thủ đô kháng chiến. Lá cờ đỏ thắm từng lồng lộng cửa hang, chính giữa là hình ảnh Bác Hồ, biểu tượng của lý tưởng và niềm tin vào tương lai tươi sáng của dân tộc. cuối câu thơ là một sự khái quát:

mười lăm năm, ai quên quê hương cách mạng dựng nước cộng hòa

Ý thức về cội nguồn, lòng biết ơn quê hương cách mạng là lẽ sống, lý do làm người chân chính. một viet bac gian khổ, bền bỉ, một viet bac yêu nước và giàu lòng nhân ái – sẽ mãi là nỗi nhớ, là tình cảm trớ trêu. bài thơ được thể hiện bằng vần điệu truyền thống, hình ảnh, ngôn ngữ giản dị nhưng đầy tình cảm, thấm đượm tình dân tộc, tình người, thể hiện sâu sắc tình cảm của không chỉ tác giả mà còn là tình cảm của tất cả chúng ta đối với quê hương thân yêu của mình. viet bac.

Phân tích bài viết tiếng Việt – mẫu 10

Trong văn học Việt Nam, tou hu được biết đến với thể loại thơ mang đậm chất trữ tình – chính trị. đề tài lịch sử đi vào thơ anh nghe ngọt ngào và nghiêm túc. Điều này đã được thể hiện rõ nét qua vở kịch “viet bac”, một bài hát nói về lòng trung thành, thủy chung của quân và dân.

Bài thơ đã tái hiện được tình cảm sâu nặng, thủy chung của người cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Nam. Trước hết, tình cảm đó được thể hiện rất rõ qua kết cấu của tác phẩm. bài thơ là lời đáp của nhân dân Việt Bắc và cán bộ cách mạng trong hoàn cảnh của những người kháng chiến trở về từ chiến khu Việt Bắc. Cuộc chia tay lịch sử ấy đã được tái hiện qua những cung bậc cảm xúc dịu dàng của bao kỉ niệm đẹp đẽ và nỗi nhớ chân thành về năm tháng đã qua. tác giả đã khéo léo sử dụng lối đối đáp gần gũi, quen thuộc với ca dao, dân ca qua các đại từ “yo” – “ta”, tạo nên những vần thơ đầy ắp nghĩa tình sâu nặng nghĩa tình đồng bào, tình cảm cách mạng.

Bài hát đầy tình yêu chung thủy được tái hiện ngay từ giây phút đầu tiên qua lời kể của người ở lại:

“Khi trở về, anh có nhớ mười lăm năm mặn nồng ấy không? Có nhớ trông cây, nhớ núi, nhìn sông, nhớ nguồn?”

Tác giả đã sử dụng thành công cách hỏi đáp ngọt ngào, thiết tha để nhớ lại “mười lăm năm tha thiết ấy”. Đó là khoảnh khắc mà người chiến sĩ cách mạng và nhân dân Việt Bắc trở nên đoàn kết, thắm thiết. các đại từ “anh” – “ta” gắn với tình tứ trong thơ bình dân kết hợp với câu thơ ngụ ngôn “nhớ” được lặp lại bốn lần đã diễn tả thành công tình cảm, nỗi lòng của “kẻ ở người đi”.

Trước tiếng nói của người dân Việt Nam, các “trợ lý” – các chiến sĩ cách mạng không khỏi “tức tưởi”, “bồn chồn”:

“giọng ai nghiêm nghị bên dòng sông quặn thắt trong bụng, bước đi không yên, Indigo cho lời chia ly, nắm tay nhau biết nói gì hôm nay …”

sự gắn bó với cảnh và tình dành cho viet bac của “người phục viên” đã được thể hiện qua những cử chỉ cụ thể, đặc biệt là hành động “nắm tay nhau biết nói gì hôm nay” thể hiện cảm xúc nghẹn ngào trong lòng. những cảm xúc không thể diễn tả thành lời. nối tiếp mạch cảm xúc ấy là những kỉ niệm ấm áp của cuộc kháng chiến gian khổ. không gian thuộc về nỗi nhớ và ý nghĩ ấy mở ra bằng hình ảnh thiên nhiên, cuộc sống gắn liền với nghĩa tình của người Việt Bắc: “đài phun mưa”, “suối lũ”, “mây rủ nhau”, “cơm tung tóe”. giao lại thái ấp “cùng những năm tháng lịch sử kháng chiến chống Nhật:” cây đa mới “,” đình hồng thái “. ​​nổi bật nhất là nỗi nhớ về một con người đầy da diết, da diết:

“nhớ không gì bằng nhớ người thân, trăng cao trên núi, nắng chiều trên lưng, nhớ từng khói sương buổi đầu bếp lửa, khi người thân trở về. Nhớ từng cánh rừng trên bờ sông ngày tháng, lạch lê đầy ta, ta nhớ ta đây này đắng cay ngọt bùi. ”

Những địa danh, những cái tên cụ thể đã diễn tả thành công vẻ đẹp độc đáo của “mặt trăng trên đỉnh núi, mặt trời ở lưng đất”. tác giả đã sử dụng điệp ngữ “nhớ từng” kết hợp với bút pháp liệt kê để miêu tả từng khoảnh khắc thời gian, không gian của núi rừng Việt Nam qua các hình ảnh: “khói sương”, “rừng trúc”, “sông nước ngày đêm”. ”,“ suoi pera ”khiến nỗi nhớ càng thêm vang dội với âm hưởng ngọt ngào như da diết. trong đó, nhớ về viet bac là nhớ đến tấm lòng đồng cam, cộng khổ cùng chia sẻ, thấu hiểu cuộc kháng chiến gian khổ: “thương nhau thì sắn củ / chia đôi bát cơm, đùm bọc nhau. chăn màn ”. . tình cảm gắn bó ấy là một trong những biểu hiện làm sáng lên vẻ đẹp của lòng yêu nước, một mạch hào kiệt xuyên suốt chiều dài lịch sử dân tộc.

Vẻ đẹp tình cảm, tình cảm gắn bó của “người đi” – “người ở” đã được tái hiện thành công thông qua những biện pháp nghệ thuật giàu bản sắc dân tộc với những đặc trưng của thơ lục bát – một thể thơ đan xen giữa trữ tình và chính luận. Tác giả đã vận dụng nhuần nhuyễn thể thơ lục bát truyền thống kết hợp với cấu trúc thất ngôn quen thuộc trong ca dao, dân ca. Ngoài ra, các biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, ngôn ngữ hình ảnh đã được sử dụng khéo léo để tạo nên chất giọng ngọt ngào, tình cảm của bản tình ca mang đậm âm hưởng cách mạng.

Như vậy, qua bài thơ “viet bac” ta thấy được tình cảm thắm thiết thắm thiết giữa quân và dân ta trong những năm kháng chiến gian khổ cũng như tài năng của nhà thơ. khả năng diễn đạt một câu chuyện chính trị trở nên cảm động, trữ tình và say mê.

phân tích cú pháp bài viết tiếng Việt – mẫu 11

viet bac là một trong những tác phẩm quan trọng trong chương trình ngữ văn 12, đặc biệt là trong kì thi THPT quốc gia. cũng thảo luận về nội dung và nghệ thuật của mảnh vỡ của người Việt Nam.

tou huu là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca Việt Nam nói chung và nền thơ ca cách mạng nói riêng, thơ ông luôn song hành cùng những mốc son cách mạng của dân tộc. Đặc biệt, bài thơ “Việt Bắc” in trong tập thơ cùng tên được coi là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là tác phẩm xuất sắc của văn học Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp. viet bac là phần mở đầu của phần i bài thơ viet bac, bài này viết về hoàn cảnh ra quân của quân và dân ta đầy hoài niệm kháng chiến giữa những người ở lại với những người đã khuất, những người đã gắn bó lâu đời với nhau. (15 năm, 1945-1954) lưu luyến sau chiến thắng 1954. Tác phẩm này chứa đựng đầy đủ phong cách thơ tiêu biểu của thể loại ngâm – một bài ca chính trị trữ tình đậm đà bản sắc dân tộc được thể hiện độc đáo cả về nội dung và nghệ thuật.

mở đầu là những lời tâm sự của viet bac, lời của người ở lại như thể hiện một sự ăn năn nhớ nhung với người đã khuất:

“ngày về có nhớ ta không? mười lăm năm náo nức. Ngày về có nhớ không? Nhìn cây có nhớ núi, khi nhìn sông có nhớ nguồn? ”

câu hỏi tu từ “em có nhớ anh không?”, “có nhớ không” có vẻ không sâu sắc, nhưng đây là một lời chúc, một lời nhắc nhở kỉ niệm 15 năm yêu nhau, muốn khơi gợi những kỉ niệm trong tương lai. Bước ra. những người yêu nhau, những cặp vợ chồng, khi họ phải chia xa, họ có nghĩa là nó nghiêm túc. cặp đại từ tự ta gợi nhớ đến những bài hát dân gian giao duyên, ở đây yếu tố đã mượn hình thức đối đáp đơn giản này, đồng thời nội dung đổi mới nhận thức về cội nguồn, cội nguồn của ký ức những ngày chinh chiến. của kháng chiến hay tình quân dân. cặp đại từ này cũng thể hiện phần nào sự gắn bó thân thiết, yêu thương của quân và dân ta. “mười lăm năm ấy” là khoảng thời gian đoàn viên giữa người cán bộ cách mạng và người cán bộ cách mạng kết hợp với cụm từ chỉ sắc thái tâm trạng “khát khao thiết tha” thể hiện bao nhiêu tình nghĩa, bao năm gắn bó. kỷ niệm khó quên.

Từ “nhớ” được lặp đi lặp lại mang lại sự nghiêm túc, day dứt và trăn trở trong nỗi nhớ cho những người đã gắn bó kỷ niệm. nghệ thuật liệt kê kết hợp các cặp từ: cây – núi, sông – nguồn như để nhớ và khẳng định mối quan hệ này không thể tách rời như cây với núi, sông với nguồn và đây cũng là hình ảnh, cội nguồn của kỉ niệm, nỗi nhớ gắn liền với núi rừng Việt Nam.

trong những câu dưới đây là lời đáp của người đã khuất, lời nói của người cán bộ cách mạng đối với đồng bào cách mạng cũng thể hiện sự xót xa, nhớ nhung trong lúc chia ly:

“giọng ai đó đang trầm tư bên bờ sông, đang uốn éo bụng, bước đi không yên, Indigo, hôm nay nắm tay nhau nói chuyện…”

sử dụng các từ “lo lắng”, “buồn”, “lo lắng” cùng với cử chỉ “nắm tay” để thể hiện tâm trạng xúc động và nhớ nhung khiến bạn không nói nên lời. việc sử dụng từ láy để chỉ “tiếng ai” kết hợp với hình ảnh hoán dụ “áo dài” gợi lên hình ảnh con người Việt Bắc gần gũi, thân thương, dễ mến. kết thúc bằng hình thức câu so le “…”, dòng 3/3/2 thể hiện tâm trạng không thể giải thích được, không muốn cho người ra đi, tạo nên những hoài niệm nhớ nhung. chia ly thật đau lòng …

Những câu hỏi của viet bac khiến kỷ niệm ở vùng đất này choáng ngợp:

“Em đi anh có nhớ những ngày mưa dầm dề sông suối mây mù Em về anh có nhớ chiến tranh có miếng cơm manh áo, chiến đấu bền bỉ không em.” đã về, rừng núi nhớ ai rơi, mơ để khi ta già, có nhớ nhà xám, giàu lòng son ơi, có nhớ núi khi chống nhật, khi còn. trong viet minh khi em đi anh có nhớ em so trao, hong thai, mái đình cây đa? “

nhớ lại những kỷ niệm về những ngày gian khổ với “mưa suối”, “mây trời”, những kỷ niệm về những ngày đầu cách mạng gian khổ, chia ngọt sẻ bùi, đồng cam cộng khổ. “một miếng cơm manh áo – một sự thù hằn mạnh mẽ.” không thể không nhắc đến tình cảm thân thương, thủy chung, ấm áp “nhớ khi tô thắm lịch sử” nhớ khi xám xịt son đầy ”mà nhắc lại những cao trào cách mạng, những địa danh thiêng liêng của lịch sử đất nước kháng chiến. the Japanese, the viet minh time “,” tan tieu, hong thai, nóc đình, cây đa “.

Câu hỏi của vietnamese bac là để đánh thức và nhắc nhở mọi người trở về và không quên những kỷ niệm. mà còn để bày tỏ cảm xúc. nỗi nhớ, nỗi trống trải trong lòng người ở lại: “núi rừng nhớ ai”, “lấp mai rụng, măng mọc già”, những khẩu hiệu “Ta đi – Ta nhớ”, “Ta về – Tôi nhớ ”, … vang lên liên tiếp nhanh chóng tự nó nói lên điều đó. lo lắng, băn khoăn liệu người đã khuất có còn nhớ, có còn lưu giữ những kỷ niệm xưa hay sẽ phủ nhận, quên đi: “Tôi đi rồi, liệu tôi có bị thương nhớ?”. nghệ thuật nhân hoá và một loạt bút pháp kết hợp với nhiều nỗi nhớ da diết đã thể hiện hình ảnh người ra đi thương nhớ với nỗi nhớ khôn nguôi lúc chia tay.

“ta với ta, ta và lòng ta, trước sau ngỡ như ra đi, ta nhớ mình nơi cội nguồn bao tình thương mến… nhớ không gì bằng nhớ người tình trăng trên đỉnh núi. , nắng chiều, nhớ từng bản khói sương sớm mai bếp lửa người thương đi về Nhớ từng cánh rừng bên bờ sông ngày, lạch lê la ta, ta nhớ những ngày ta. ở đây và ở đó, cay đắng và ngọt ngào … “

hai đại từ ta – ta ở gần nhau nhưng không bao giờ rời nhau, “tôi và tôi, tôi và tôi” thật thú vị. nó không tách rời ý nghĩa như riêng biệt mà hòa vào nhau thành một lời khẳng định về lòng chung thủy. đài và nước càng thêm quý mến mình, ai cũng biết đài và nước là vô bờ ở đầu câu: nhớ gì, nhớ từng… khẳng định người ra đi không quên câu nào. hình ảnh trong viet bac, trong thiên nhiên viet bac và những con người ở đây.

Thiên nhiên Việt Bắc là thiên nhiên rộng lớn, hùng vĩ, tràn đầy sức sống, thiên nhiên vừa hiện thực vừa thơ mộng mang những nét đặc trưng của Việt Nam: trăng trên đỉnh núi, mặt trời trên lưng, … .Hình ảnh thiên nhiên luôn gắn bó mật thiết với con người. hãy nhớ rằng người Việt Nam luôn gắn bó với thiên nhiên, luôn cần cù, gần gũi, tràn đầy năng lượng, luôn lạc quan tràn đầy sức sống, yêu đời, yêu công việc. những con người đầy nghĩa tình, đồng cam cộng khổ gắn bó với các chiến sĩ cách mạng. Tôi cũng nhớ rằng, người Việt Nam ngoài bắc còn đầy rẫy khó khăn, vất vả. nhớ về dân tộc Việt Nam như vậy thể hiện nỗi niềm của tác giả đối với cảnh ngộ của người dân Việt Bắc. để rồi nhớ lại cuộc sống và những ngày sống ở chiến khu. Dù có gian khổ, khó khăn trong cuộc sống kháng chiến nhưng Bác vẫn lạc quan, yêu đời: sinh hoạt học tập, lễ hội, .. không gian yên bình, tĩnh lặng.

một trong những nét độc đáo của viet bac là bức tranh tứ bình nhiều màu sắc. Qua những câu chuyện của các chú bộ đội, hình ảnh thiên nhiên thật sinh động và tươi sáng:

“Em về, anh nhắc về em nhớ hoa và người, rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi, đèo cao, nắng chiếu thắt lưng. Em nhớ đến hoa và người, rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi, đèo cao, nắng chiếu thắt lưng. Em nhớ mùa xuân, mộng trắng.” nở rừng nhớ người đan nón chuốt từng sợi rừng Chị hái măng một mình, trong rừng thu trăng soi bình yên nhớ ai câu hát thủy chung. “

người đã khuất khẳng định nỗi nhớ trong lòng, hình ảnh “hoa cùng người” cho thấy thiên nhiên và con người việt bắc luôn hòa quyện, là đối tượng của nỗi nhớ. mùa đông ở đây là màu xanh bạt ngàn của núi rừng việt nam, đâu đó được tô điểm và bừng sáng bởi màu đỏ tươi của hoa chuối, bài thơ tả cảnh mùa đông nhưng không có cảm giác lạnh lẽo, ảm đạm. hình ảnh “hoa chuối đỏ tươi” như xua tan đi cái lạnh nơi núi rừng, mang đến cảm giác ấm áp, gần gũi và thân thương. ở đây hình ảnh con người hiện lên với tư thế dũng cảm, tự tin trên đèo cao, con dao rừng được phản chiếu dưới ánh nắng khiến hình ảnh con người sáng ngời trở thành trung tâm của bức ảnh. mùa xuân thơ mộng với sắc trắng tinh khôi của hoa mơ, cả núi non ngập một màu trắng xóa. “Rừng trắng nở rộ” gây ấn tượng mạnh, dường như phong trào đã khoác lên mình màu áo mới tại Việt Nam. hình ảnh bừng tỉnh sức sống thể hiện không khí náo nức của mùa xuân sắp đến.

thời gian này người dân Việt Bắc đã hình thành nên hình ảnh lao động cần cù, cần cù, thông minh, sáng tạo để tạo ra những sản phẩm làm giàu cho người Việt Bắc góp phần kháng chiến. Xuân đi qua, hè đến, hình ảnh thơ mang theo tiếng ve kêu rộn rã và màu vàng tươi của hoa hổ phách, tiếng ve vang lên như khiến cả khu rừng đồng loạt đổ vàng. Người Việt Nam hiện ra giữa tiếng ve và màu hổ phách rực rỡ trong tư thế lao động đời thường gợi cảm xúc trữ tình nên thơ. mùa thu được gợi lên bằng những hình ảnh cổ điển mang hương vị thơ tang, không khí thanh bình, êm ả, vẻ đẹp nên thơ, êm đềm cùng với ánh trăng. con người xuất hiện với câu hát về tình yêu thủy chung, khơi gợi niềm lạc quan, yêu đời và tình cảm gắn bó, thủy chung.

“Còn nhớ khi giặc đến xâm chiếm rừng, núi đá, ta cùng nhau đánh về phía tây, núi trải một lũy sắt dày, rừng che bộ đội rừng, chúng bao vây địch, bao vây an sương mù bao la, vùng đất của chúng tôi, toàn bộ chiến khu của chúng tôi. ai nhớ ai đó? Tôi nhớ rừng thông, đèo giang, nhớ sông Lô, nhớ phố phường, nhớ cao lang, nhớ nhì hà… ”

Trong những giai đoạn đầu, khi cách mạng còn non yếu, thiên nhiên Việt Bắc với núi rừng bao la, hùng vĩ đã làm bạn với quân và dân ta, che chở cho quân, dân ta, “rào”, “chiến đấu. Sử dụng biện pháp nhân hóa để làm cho thiên nhiên của Việt Bắc thêm sinh động và cảm động. Chiến thắng của Việt Bắc là nhớ từng tên sông, núi, đường phố, .. của Việt Nam với tinh thần chiến đấu anh dũng và sôi nổi của chiến tranh kháng chiến chống giặc, tinh thần đoàn kết – anh dũng kháng chiến

viet bac lớn lên với khí thế hào hùng, sôi nổi của chiến trận:

“những con đường bắc việt của chúng ta đêm ầm ầm như đất rung chuyển, trùng trùng sao vũ khí mũ đỏ của công dân nandan từng đoàn từng bậc đá dăm, khói lửa bay ngàn vạn. đêm sâu trong sương mù dày đặc ánh đèn pha sáng như mai tin mừng chiến thắng trăm miền hòa bình, tây bắc, di giếng vui trở về từ đồng thap, khevui về việt bắc, đèo từ, núi hồng ”.

từ quá khứ, tác giả mở ra hình ảnh một đội quân đang lớn mạnh, liên tục hành quân trong đêm trong một không gian vô cùng rộng lớn. Nghệ thuật so sánh kết hợp với điệp ngữ đã gợi tả sức mạnh to lớn, sự trưởng thành, khí phách anh dũng của quân đội ta. nếu hình ảnh đoàn quân “trùng điệp nối tiếp núi non, nối tiếp nhau không ngừng, là hình ảnh hùng tráng, thì hình ảnh ẩn dụ“ đầu súng sao ”lại là bài thơ trữ tình đẹp để nghĩ về người cách mạng. lý tưởng soi đường, soi đường và bản chất việt nam là người bạn đồng hành của người chiến sĩ cách mạng. Những ngọn đuốc đỏ rực của đoàn quân diễu hành, kết hợp với hình ảnh phóng đại “bước chân gãy” thể hiện sức mạnh, ý chí quyết tâm và trái tim cháy bỏng của quân đội đã có được qua bao khó khăn, gian khổ. đó là hình ảnh màn đêm không bóng đêm, ánh đèn pha xua tan bóng tối, nghệ thuật so sánh “như thể ngày mai” kết hợp với nhịp thơ nhanh, mạnh đã thể hiện niềm lạc quan tin tưởng vào tương lai tươi sáng của đất nước. nhớ việt nam cùng nhau nhớ về niềm vui chiến thắng, tin tức chiến thắng từ khắp mọi miền đất nước được đưa tin về đây và lan truyền từ đây. nghệ thuật liệt kê những địa danh gắn liền với chiến thắng, nhịp thơ sôi nổi, giọng thơ thiết tha thể hiện niềm tự hào, vui mừng chiến thắng.

“có ai nhớ không? cờ đỏ thắm, gió lộng, cửa hang. trưa nắng chói chang, sao vàng trung ương bàn việc công. Ra quân thu đông chiến dịch dã chiến , giao thông được khai thông để giữ vững đê phòng, ví dụ như thu lương gửi dao vùng ngược, thêm trường học vùng khác … còn đâu nỗi u ám của kẻ thù phải đối mặt với bắc việt? Có đau thương, nòi giống nhìn về phương bắc việt nam mà ủng hộ. khi xây dựng nước cộng hòa, tôi nhớ ngôi nhà hồng thái, cây đa và cây đa mới. ”

hãy nhớ rằng viet bac là cơ quan đầu não của cách mạng. Đó là nơi diễn ra các cuộc hiệp thương, phổ biến các chủ trương của Đảng và Chính phủ, chỉ đạo con đường cách mạng trong cả nước. tất cả những người dân Việt Nam, những người yêu quê hương đất nước đều đặt niềm tin, ước nguyện và hy vọng vào nơi đây. viet bac là nền tảng vững chắc, là nơi sản sinh ra những con người và những địa danh sẽ còn mãi trong lịch sử dân tộc: nóc nhà hồng thái, cây đa tân tự. người đến, người đi muốn nhắn nhủ với những người con đất Bắc rằng dù có trở về và ở xa nơi đây, những gì đẹp đẽ nhất về người chiến sĩ cách mạng sẽ luôn được gìn giữ và phát huy.

Vị trí của chữ việt cũng như của tiền nhân trong thơ ca việt nam là điều không thể chối cãi. bài hát này vừa là chủ nghĩa anh hùng của cuộc kháng chiến, vừa là sự nhân hậu trong tình cảm cách mạng của quân và dân, gửi gắm tất cả tâm tư tình cảm cũng như phong cách thơ của họ. chuyển thể và sáng tạo thơ lục bát vừa bình dân vừa hiện đại. sử dụng các câu trả lời trong ca dao một cách giản dị, nhẹ nhàng nhưng nghiêm túc. đồng thời nhấn mạnh ý tưởng và tạo ra một nhịp điệu âm nhạc nhịp nhàng thấm sâu vào tâm trí thông qua việc sử dụng các đối âm nhỏ. lối nói mộc mạc, giản dị, ngôn ngữ giàu hình ảnh, đặc biệt là cặp đại từ quen thuộc và sáng tạo. các biện pháp tu từ: nhân cách hoá, phép liệt kê, v.v. chúng được sử dụng một cách tinh tế và khéo léo. tất cả đều đưa chúng ta về quá khứ với những kỷ niệm ngọt ngào, chân thành và một tình yêu nồng nàn, thủy chung và thủy chung.

xem thêm: đoạn kết hay nhất của bài viết viet bac de to huu

Phân tích bac sĩ Việt Nam – mẫu 12

nhà văn trữ tình chính trị xuất sắc nhất trong văn học Việt Nam. những bài thơ của ông luôn hừng hực khí thế đấu tranh, bám sát từng sự kiện lịch sử. viet bac là một trong những bài thơ đó.

tác phẩm ra đời sau khi chúng ta giành được thắng lợi, hòa ước được ký kết, hòa bình lập lại trên miền Bắc, mở ra một trang sử mới cho dân tộc. Tháng 10 năm 1954, các cơ quan đảng và chính quyền ta từ chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội, tiếp tục thực hiện sứ mệnh lịch sử của đất nước. Nhân cuộc chia tay đặc biệt này, cuộc chia tay giữa Việt Bắc và những con người trở về đồng bằng, Tố Hữu đã viết bài thơ về Việt Bắc.

mở đầu bài thơ là mong ước, lời nhắc nhở của đồng bào đã ra đi: “có về quê có nhớ /…/ trông cây nhớ núi, trông sông nhớ nguồn”. từ “ghi nhớ” trong cùng một cấu trúc câu hỏi “bạn có nhớ tôi về tôi không? /… / bạn có nhớ tôi về tôi không?” nó làm cho nỗi nhớ da diết, khắc khoải hơn.

kỷ niệm đầu tiên được nhắc đến là mười lăm năm kể từ khi Việt Bắc làm căn cứ địa vững chắc cho cách mạng. Với kỷ niệm thứ hai, tác giả đã tái hiện chân thực không gian của mình từ sự gắn bó của sông, núi và đài phun nước. tâm trạng của thiên nhiên cũng là nỗi nhớ da diết của chính con người.

Những kỷ niệm sâu nặng không chỉ được tái hiện chân thực mà còn đầy xúc động trong từng cặp lục bát. có thể thấy cụm từ “nhớ” trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt tác phẩm. đó là nỗi nhớ về những tháng ngày gian nan “mưa xuân mây gió”; người Việt Nam tuy nghèo nhưng trung thành, thủy chung, đồng cam cộng khổ, kiên cường “miếng cơm manh áo”, “thù dai, nghĩa nặng”.

đặc biệt là nỗi nhớ được gói gọn trọn vẹn trong một câu thơ súc tích và ý nghĩa: Em đi rồi anh có nhớ không? cái tôi thứ ba là cách nói gần gũi, trìu mến thể hiện tình cảm gắn bó sâu nặng. Sau những lời dặn dò, nhắc nhở nhiệt thành của người ở lại là sự khẳng định chắc nịch của những người cán bộ kháng chiến:

giọng ai trầm tư bên sông quặn thắt trong bụng, bước đi không yên vết chàm, nắm tay nhau biết nói gì hôm nay …

tou hao đã sử dụng hết sức linh hoạt các từ “lo lắng”, “tức giận, bồn chồn” giàu giá trị gợi cảm, thể hiện trạng thái tâm lý chán nản, lo lắng, nhớ nhung, vương vấn. trong bài thơ, nổi bật nhất là hình ảnh chiếc áo chàm. Hình ảnh hoán dụ thể hiện sự tiễn biệt không chỉ của một người mà của toàn thể nhân dân Việt Bắc đối với tranh khi trở về.

và sự lưu luyến ấy sẽ là cơ sở để khẳng định tình yêu, lòng thủy chung của người ra đi với người ở lại: “ta với ta, ta với ta / Ta ra đi, ta nhớ mình / Còn giữ bao nhiêu nước, thế yêu nhiều … ”. câu thơ “tôi với tôi / tôi với tôi” được chia thành 3/3, ở đầu và cuối mỗi phách đều có một cặp đại từ: tôi, thể hiện sự gắn bó, quyến luyến, không thể tách rời.

sáu dòng sau đây, một cách rất ngắn gọn, súc tích và hay, đã tái hiện lại cảnh tượng việt bắc trong tâm trí tôi: “nhớ nhung như nhớ người yêu /…/ thia nii, day river, le stream, v.v. hoàn thành”. Hình ảnh so sánh “như nhớ thương người yêu” rất đặc sắc, nó thể hiện sự chân thành, khắc khoải của chàng trai và cô gái, lấy hình ảnh so sánh như vậy thể hiện sự gắn bó thiết tha trong tình yêu.

những hình ảnh gợi cảm và thơ mộng: trăng trên đỉnh núi, nắng chiều trên lưng núi, sương khói làng xóm, bếp lửa, rừng trúc, chõng tre … rất thơ mộng. của khu rừng .mountain. đặc biệt, ông còn sử dụng linh hoạt các địa danh nii thia, sông ngày, suối le càng tô đậm thêm nỗi nhớ của người đã khuất với núi rừng, với con người nơi họ ở. Những ngày tháng đấu tranh ấy tuy gian khổ, tuy vất vả nhưng chan chứa nghĩa tình: “Thôi anh ơi nhớ ngày / … / đĩa cơm chia nửa, chăn chung bữa cơm”.

bốn câu thơ là lời khẳng định, khi ra đi người đi sẽ không bao giờ quên những ngày tháng lưu luyến, ta và ta đã cùng chung nỗi đau, cùng chia đắng, sẻ bùi. và làm sao chúng ta có thể quên được người mẹ miền Bắc nắng cháy lưng còng vẫn cõng con đi làm rẫy, cần mẫn bẻ từng bắp ngô … điều đó đã gợi lên sự cần cù, siêng năng của những người mẹ trong cuộc kháng chiến, anh đã bảo vệ và ủng hộ các chiến sĩ cách mạng.

và cả những cảnh sinh hoạt văn phòng với những âm thanh quen thuộc trong lớp học, những bài hát lạc quan và vui tươi trong những hoàn cảnh khó khăn. Bài thơ không chỉ đơn giản là tái hiện sự kiện, con người, cảnh vật mà còn chứa đựng nỗi nhớ, lòng biết ơn sâu sắc đối với các chiến sĩ cách mạng và nhân dân Việt Nam đã giúp đỡ họ.

Trong tác phẩm này, có lẽ đẹp nhất và tài hoa nhất là khi yếu tố lông vũ của tác giả tạo nên hình ảnh tứ bình độc đáo: “nhớ em /… / nhớ ai câu tình ca? Chung thủy”. mở đầu hình ảnh là cảnh mùa đông điển hình: rừng xanh hoa chuối đỏ tươi / bước cao nắng gùi dao ngang lưng. màu chính trong hình ảnh này là màu xanh lam. Trên nền xanh ngút ngàn ấy, “hoa chuối đỏ tươi” nổi bật, xua tan u ám và thổi bừng sức nóng.

sức nặng của hai câu thơ tập trung ở hai chữ “bước cao” gợi lên tư thế tự hào của con người Việt Nam trong công cuộc lao động. rồi cảnh xuân tinh khôi với rừng mơ trắng: ngày xuân mơ nở trắng / nhớ người đan nón đan từng sợi. núi rừng Việt Bắc ngập trong một màu trắng tinh khôi của hoa mai.

trong rừng hoa mai ấy, ta thấy hình ảnh con người Việt Bắc trong lao động, với vẻ đẹp cần cù, tài hoa hòa hợp với thiên nhiên thơ mộng, trong sáng. cảnh mùa hạ đặc trưng bởi một màu vàng ấm áp: tiếng ve kêu rừng đổ vàng / Nhớ chị hái măng một mình.

câu thơ trước chỉ có sáu âm tiết, nhưng nó gợi lên một chuỗi chuyển động liên tục: tiếng ve kêu mùa hè đến, mùa hè với ánh nắng chói chang nhuộm vàng cả khu rừng hổ phách. hình ảnh một người xuất hiện gọi “chị” khiến người Việt Bắc có vẻ rất thân thương và gần gũi.

người ấy tỏ ra rất bình thản: “chị” “lẻ loi” giữa rừng trúc, lặng lẽ làm việc. hình ảnh cuối cùng là cảnh thu: rừng thu, trăng soi bóng hòa bình / Nhớ câu ca dao thủy chung. hình ảnh mùa thu thanh bình, hạnh phúc, biểu tượng của hòa bình, cũng là mục tiêu mà cách mạng theo đuổi.

Trong dòng hồi tưởng, người bạn không quên nhớ về cuộc sống, cuộc đấu tranh đầy gian khổ. Đó là khi cách mạng còn non trẻ, lực lượng còn non yếu, địch đến đánh đuổi thường xuyên, đây là một thử thách lớn cho ý chí của con người. nhưng dù trong khó khăn vẫn không chịu khuất phục con người, núi rừng chung sức đánh giặc: Rừng núi, đá ta đánh tây. cuộc kháng chiến ngày càng mạnh, chúng ta thắng trận này đến trận khác.

giọng thơ đầy tự hào và vui sướng. khép lại bài thơ, tác giả còn vẽ ra một bản đồ vui mừng kéo dài khắp đất nước báo tin chiến thắng. nhịp thơ gấp gáp, vui tươi, hào hứng cùng với sự xuất hiện của một số địa danh từ hàng trăm miền gắn với tin vui chiến thắng đã thể hiện tốc độ chiến thắng thần kỳ. chiến thắng đó đã lan tỏa khắp mọi miền đất nước, tạo nên ngày đại thắng của cả dân tộc ta.

viet bac có thể coi là một bản tổng kết lịch sử của cách mạng dân tộc. Bài thơ đã tái hiện một cách chân thực vẻ đẹp thiên nhiên và con người Việt Bắc cùng với cuộc kháng chiến vĩ đại và anh dũng của dân tộc ta. bài thơ có sự kết hợp hài hoà giữa trữ tình và chính luận, thể thơ lục bát dân tộc, giọng điệu linh hoạt, hình ảnh giàu sức biểu cảm đã tạo nên một bài thơ xuất sắc.

viet bac test – mẫu 13

tou huu được mệnh danh là tác giả trữ tình chính trị hay nhất trong văn học Việt Nam. những tác phẩm thơ của ông có thể coi là những sử liệu thơ ghi lại những sự kiện, sự kiện trọng đại trong lịch sử nước nhà. viet bac là một trong vô số những bài thơ như thế, khi cảm xúc của những người còn lại, từ cuộc kháng chiến trường kỳ mười lăm năm của dân tộc, đã kết thúc thắng lợi.

viet bac được thành lập năm 1954 khi ban chấp hành trung ương đảng chuẩn bị rời chiến khu viet bac về Hà Nội. chính vì vậy mà bài thơ là nỗi nhớ da diết, nhớ nhung, day dứt về bức tranh và của con người nơi đây. Đó là lý do tại sao, từ khổ thơ đầu tiên, tou nói:

Khi quay trở lại, tôi nhớ mười lăm năm say đắm bên tôi, bạn nhớ nhìn cây, nhớ núi, nhớ sông, nhớ đài phun nước

với kết cấu gia đình đối đầu và quan hệ, bài thơ thể hiện cuộc chia tay giữa cán bộ và nhân dân Việt Bắc. tình yêu đôi bên rất sâu nặng, đằm thắm và nghiêm túc được thể hiện qua đại từ “ta – ta” gợi lên nỗi nhớ nhung, da diết lúc chia tay. lời nhắn nhủ của người ở lại thực sự xúc động, được thể hiện chủ yếu qua những câu nói, câu hỏi: có nhớ em không, có nhớ vang lên liên tục thể hiện nỗi nhớ khôn nguôi. nỗi nhớ không lớn lao, xa vời mà bằng những thứ rất gần gũi, thân quen: cây cối, sông nước, núi non, đài phun nước. mỗi địa danh, mỗi không gian đều gắn với một kỷ niệm mãnh liệt, sâu lắng.

đáp lại lời của người ở lại, lời của người ra đi cũng thấm thía không kém: “tiếng ai nặng bên rượu / Lòng quặn thắt, bước đi không yên / Áo chàm chia ly / nắm tay nhau làm quen. Hôm nay nói gì ”. chủ đề đã sử dụng linh hoạt hàng loạt từ ngữ, biệt ngữ giàu cảm xúc: nghiêm trang, sầu muộn, khắc khoải, thể hiện cảm xúc chân thành, nghiêm túc của người chiến sĩ cách mạng khi phải rời xa nơi mình gắn bó bao năm. dòng cuối còn lửng lơ, nhịp thơ chậm lại, dừng lại để thể hiện sự lưu luyến không muốn tiễn người ra đi.

Mười hai câu dưới đây là lời đối đáp của người Việt Bắc, kể lại một thời với những kỷ niệm đẹp trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp:

“Em đi rồi, anh có nhớ những ngày… tết, mái đình hồng xiêm, cây đa không?”

Hàng loạt không gian khác nhau lần lượt xuất hiện, không gian rừng núi, không gian sinh hoạt cộng đồng, … tất cả những không gian này đều gắn bó mật thiết với những người đã khuất. các địa điểm được ghi nhớ từ xa đến gần, từ mưa, suối, lũ lụt, mây mù, những nơi không rõ địa điểm, đến địa điểm cụ thể, chiến khu, tân niên, hồng thai. khiến lòng người đi ra ngoài cũng là xúc động. không chỉ những địa danh, họ còn đề cập đến cuộc sống đời thường rất giản dị, thậm chí khắc khổ trong những năm tháng chiến tranh ấy, đĩa cơm chấm muối, quả mơ, miếng măng… nhưng vẫn thấm sâu vào lòng người. đằng sau mỗi câu, mỗi chữ ta còn thấy nỗi niềm, nỗi niềm của người ở lại, dòng cuối của khổ thơ là một câu hỏi tu từ khiến ta đau đớn, xót xa hơn bao giờ hết. .

Trước những tình cảm chân thành, thắm thiết của đồng bào để lại, các chiến sĩ cách mạng đã không ngần ngại bày tỏ ở đây lòng biết ơn và tình cảm sâu sắc đối với con người và thiên nhiên: “ta với ta, ta với ta /…. / cái đêm khuya tiếng chày giã cối còn xa ”. khổ thơ là lời khẳng định chắc nịch về tình cảm thắm thiết, bền chặt của kẻ đi đối với kẻ ở, đó là tình cảm “thủy chung, nghĩa tình” không thay đổi. và để khẳng định tình cảm chân thành ấy, các bạn cũng đã tái hiện rất tinh tế những kỉ niệm của mười lăm năm kháng chiến gian khổ nhưng rất đỗi vui tươi, hào hùng: khói sương, những địa danh, những quen thuộc với dòng sông, ngày sông, một lớp học chữ. vào những đêm trăng, là chia ngọt, sẻ bùi, tấm chăn để đắp, lòng biết ơn vô hạn đối với mẹ mà nói rộng ra là người đã nuôi dưỡng và tiếp thêm sức mạnh cho các chiến sĩ. bài thơ không chỉ tái hiện ký ức về những năm tháng gian khó, hào hùng mà còn thể hiện lòng biết ơn sâu sắc đối với dân tộc Việt Nam.

Trong khổ thơ tiếp theo là hình ảnh đẹp nhất, thể hiện tài năng của một nhà thơ kiệt xuất: hình ảnh tứ tuyệt:

Ta nhớ ai ta nhớ câu hát ân tình thủy chung.

Hai câu thơ đầu là lời cầu xin của người đã khuất đối với người an nghỉ, đồng thời cũng là lời bày tỏ tâm tư, tình cảm của mình. tám câu thơ sau vẽ nên cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp và chân dung con người Việt Nam hiện dần khắp bốn mùa. mùa đông được mặc nhiên coi là mùa lạnh, mùa của héo úa, héo úa, nhưng trong hình ảnh tố ta thấy không phải sự cô đơn, lạnh lẽo mà là hình ảnh đỏ tươi của những bông hoa chuối trên nền xanh của núi rừng. màu đỏ rực lửa ấy làm tan đi cái lạnh giá của mùa đông, sưởi ấm không gian của thiên nhiên núi rừng. sau sắc đỏ tươi của hoa chuối là đến sắc trắng tinh khôi của những rặng mai bạt ngàn mang đến cảm giác tươi mát, trong lành cho cảnh vật thiên nhiên. mùa hè rộn ràng tiếng ve và sắc vàng của rừng phách vàng, cả không gian ấm áp của mùa hạ. cuối cùng là cảnh thanh bình của ánh trăng êm dịu.

mỗi câu thơ tả cảnh thiên nhiên là chân dung con người Việt Bắc. trong mỗi hình ảnh, con người hiện lên rất mạnh mẽ và năng động. họ là những người đi rừng sáng thắt đai lưng, chinh phục thiên nhiên. đến với hình ảnh mùa xuân, hình ảnh người “đan nón lá” dẻo dai và nữ tính, sắc nét từng đường kim mũi chỉ. người em hái măng một mình, nhưng không phải một mình em mà chiếm lĩnh cả cảnh vật thiên nhiên của mùa hè. và cuối cùng là bài hát lấp đầy không gian mùa thu. Trong bất kỳ bức tranh nào, hình ảnh con người hiện lên rất năng động và mạnh mẽ, họ không hòa mình vào thiên nhiên mà chủ động chiếm lĩnh và thống trị toàn bộ không gian.

Trong mạch hồi tưởng, tác giả nhớ lại những năm tháng kháng chiến hào hùng của quân và dân Việt Bắc, tuy gian khổ nhưng cũng đầy hào hùng. Khi ấy, không chỉ người dân Việt Bắc, mà cả thiên nhiên cùng chung sức đánh tan quân xâm lược: “Núi giăng vách sắt dày / Rừng che lính rừng vây giặc”. Trải qua những năm tháng khó khăn, quân và dân ta đã liên tiếp giành được những thắng lợi to lớn và thành công vang dội: “Đất nước ta / … những đoàn xe ra trận ngày đêm xuyên qua màn sương mù mịt mù của quân Việt Bắc. bài thơ hiện thực nhưng cũng vô cùng lãng mạn, nó không chỉ xuyên qua bóng tối của viet bac mà còn mở ra tương lai và hy vọng cho đất nước. câu thơ “đèn pha sáng như mai” chính là thể hiện tinh thần và niềm tin ấy của tác giả.

viet bac có thể được xem như một bản tổng kết về cuộc kháng chiến trường kỳ và vĩ đại của dân tộc ta. không chỉ vậy bài thơ còn thể hiện tấm lòng biết ơn sâu sắc, chân thành và vô hạn của tác giả nói riêng và các chiến sĩ cách mạng nói riêng đối với dân tộc Việt Nam. đồng thời bài thơ cũng thể hiện tài năng nghệ thuật của người làm thơ.

phân tích viet bac – mẫu 14

Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi là một sự kiện lịch sử quan trọng trong cuộc trường kỳ kháng chiến của dân tộc ta. Nhờ sự kiện trọng đại này, tháng 7 năm 1954 hiệp định chung được ký kết, hòa bình lập lại, miền bắc được giải phóng và bắt tay vào sự nghiệp xây dựng cuộc sống mới. do đó, các cơ quan trung ương của đảng đã rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội. Vào lúc tang tóc và mong mỏi chia tay, người bạn đã viết bài thơ Việt Bắc để bày tỏ tình cảm của mình.

chúng ta đều biết rằng tou hu là một nhà thơ của gia đình trong cuộc kháng chiến. con đường thơ của ông gắn liền với con đường cách mạng. Với giọng thơ ngọt ngào, những sáng tác của cô đã chạm đến trái tim người đọc. và “viet bac” cũng không ngoại lệ. bài thơ “viet bac” được viết như một cuộc giao lưu giữa người ra đi và người ở lại trong giờ phút tiễn biệt đầy luyến tiếc sau bao năm gắn bó. đầu bài thơ là những lời tâm sự của người ở lại.

“Khi quay trở lại, tôi nhớ về mười lăm năm với niềm đam mê, tôi nhớ nhìn cây, nhớ núi, nhìn sông, nhớ đài phun nước”

Trong lúc chia tay, người bị bỏ lại dường như rất nhạy cảm với sự thay đổi của hoàn cảnh và nói chuyện để nhắc nhở người đã khuất về những kỷ niệm thân thiết. người ở lại hỏi về không gian “trông cây nhớ núi, nhìn sông nhớ đài phun”, họ hỏi về thời gian: “mười lăm năm ấy…”. cụm từ “mình nhớ” tạo cho bài thơ một giai điệu hoài niệm. những người ở lại là nhắc nhở những người còn lại về đạo lý uống nước nhớ nguồn. nghe lời người ở lại, người ra đi cũng ngập ngừng “bước đi một bước, đi một bước thì dừng lại”. trong lời tiễn biệt rất ý nhị và sâu sắc, người đã khuất nghẹn ngào không thốt nên lời: “nắm tay nhau rồi biết nói gì hôm nay”. bàn tay ấy chứa đựng nhiều cảm xúc của người đã khuất. từng dòng nhịp nhàng thể hiện một thoáng ngập ngừng của tác giả. sự tạm dừng đó đã tạo ra một khoảng thời gian im lặng để tập hợp các câu hỏi tiếp theo phát ra nhanh hơn. Với những câu nói mà người ở lại không ngừng hỏi, người ở lại nhớ lại những ngày tháng ở chiến khu Việt Bắc. mười hai dòng của bài thơ được chia thành sáu câu hỏi như muốn xoáy sâu vào kỉ niệm. những ký ức đầu tiên là những ngày đầu gian khổ, khó khăn của chiến khu, của cuộc kháng chiến: “núi rừng”, “sương mù tứ bề”, “mưa suối, mây trời”… những hình ảnh thể hiện cả những những ngày khó khăn của thiên nhiên và những ngày khó khăn. rồi đến cảnh vật, con người việt bắc – những con người trung hậu, nhân hậu, chịu thương chịu khó: “miếng cơm chấm muối bao nhiêu hận thù”, “bìm bịp thấu tim xám”. và sau đó là ký ức về mảnh đất chiến khu từ thời kháng chiến chống Nhật thời Việt minh. Chỉ bằng mấy câu thơ, Tố Hữu đã chứng tỏ Việt Bắc là một nền móng vững chắc với những mốc son lịch sử: Tân Trào, Hồng Thái. Mười hai dòng tiếp theo này không chỉ gợi lại những kỉ niệm xưa với người đã khuất mà còn thể hiện tài năng nghệ thuật thơ của nhà thơ. trong câu thơ sáu tiếng, mỗi câu “Ta đi” và câu sau “Ta trở về” chỉ một hướng đi của con người. nhà thơ đã khéo léo sử dụng tiếng Việt để tạo nên từ nhiều nghĩa. hấp dẫn người đọc còn là nghệ thuật “đi – đi” kết hợp với động từ “nhớ” tạo nên một giai điệu vừa êm dịu, vừa du dương trong sự ăn năn, ân nghĩa thủy chung. Hơn hết, chúng đan xen những câu hỏi không phải dùng để hỏi mà là những câu độc thoại nội tâm: “đi rừng về nhớ ai – lấp bùn để mất mai nuôi mộng già”. . đối diện với kỉ niệm của người ở lại, người ra đi cũng khẳng định nghĩa tình không bao giờ thay đổi: “Ta với ta, ta với ta, lòng mặn nồng trước sau”. cặp đại từ “ta – ta” gắn bó mật thiết với nhau như sự lưu luyến của kẻ ra đi với kẻ ở lại. lòng chung thủy ấy còn được ví với nước trong đài: “nước trong đài bao nhiêu thì tình bấy nhiêu”. câu thơ đã khẳng định lòng chung thủy mãi mãi bền chặt như tình yêu đôi lứa, như nước trong vắt không bao giờ cạn. tác giả đã làm cho việc khai thác từ “tự động” rất tốn kém. trong tiếng Việt, từ “tôi” là chính mình hoặc người khác, xưng hô giữa vợ và chồng. nhưng trong tác phẩm, “ta” vừa là người ở lại vừa là người ra đi: “khi ra đi thương nhớ”. cách sử dụng đa âm sắc này đã làm tăng tính nghệ thuật của bài thơ.

sau lời hồi đáp của những người ra đi và những người ở lại, những người đã khuất đã thổ lộ tâm tư tình cảm của mình. nó là một ký ức không thể xóa nhòa. đầu tiên, hãy nhớ về viet bac. nỗi nhớ ấy réo rắt: “nhớ nhung chẳng bằng nhớ người yêu”. người ra đi nhớ về cảnh sắc thiên nhiên thanh bình, thơ mộng. với các hình ảnh: “ánh trăng”, “nắng chiều”, “đèo núi”, “bếp lửa”…. và những con người có tấm lòng thủy chung, nghĩa tình sâu nặng: “bát cơm bẻ đôi, trùm mền”. Nhà thơ cũng không quên hình ảnh người mẹ Việt Bắc: “nhớ mẹ đốt lưng – dắt con ra đồng bẻ từng bắp”. không chỉ cảnh sắc thiên nhiên, con người nơi đây mà những kỷ niệm bao đời nay của đồng bào, tình cán bộ, chiến sĩ ấm áp, khó khăn gian khổ nhưng vẫn lạc quan, yêu đời cũng ùa về: “nhớ lớp: đêm khuya. , ngọn đuốc sáng trong những giờ tiệc – nhớ sao cơ quan – cuộc sống gian khổ vẫn hát vang núi đèo. ”

Tiếp nối sự tưởng nhớ người đã khuất là bức tranh tứ bình đẹp. cảnh và người quyện vào nhau qua bốn cặp lục bát, thể hiện qua bốn mùa. mùa đông hiện ra giữa bạt ngàn phản chiếu màu xanh với “hoa chuối đỏ tươi”. mùa xuân không gian bừng lên màu tinh khôi của “mộng mơ”, mùa hạ là “rừng phách vàng” trong tiếng ve kêu. mùa thu là ánh trăng dịu nhẹ trong khúc hát ân tình thủy chung. một bức tranh tươi đẹp tràn đầy sức sống đã hiện ra trước mắt người đọc chỉ bằng vài câu thơ của nhà thơ.

Cuộc kháng chiến gian khổ nhưng anh dũng là ký ức không thể phai mờ trong lòng những người đã khuất. Người quá cố nhớ lại những ngày tháng gian khổ của Việt Bắc, vùng đất anh hùng của thiên nhiên và những người lính đánh giặc: “Ta đánh Tây cùng rừng, núi, đá”; nhớ những chiến công vang dội gắn liền với các địa danh: “Phủ thông, giang sơn”, “nhớ sông, nhớ phố – nhớ chữ cao – lang, nhớ nhì – hà”. những người ra đi còn nhớ hình ảnh đoàn quân Bắc Việt ra đi. Trên đường từ bắc việt nam, khí thế chiến đấu “ầm ầm như đất trong đêm”, lực lượng quân đội với lực lượng quân đội “trùng điệp” nối tiếp nhau trong một trận đánh đẹp mắt trong tư thế “ánh sáng của các vì sao”. cuộc hành quân toàn diện của toàn thị xã với tinh thần quyết chiến quyết thắng: “Dân công đuốc đỏ từng đoàn – đá dăm, lửa bay”. Với tinh thần chiến đấu ấy, những chiến công vang dội nối tiếp nhau: “Tiếng lành đồn xa trăm miền”. với những chiến thắng này, ông đã dẫn đến sự khẳng định cuối cùng về tính đúng đắn của đường lối cách mạng của Đảng. chính vì vậy mà phần cuối của bài thơ được dùng để tuyên truyền cho câu thơ đó, đồng thời khẳng định rằng Việt Bắc là cái nôi của cách mạng, là niềm tin và niềm tự hào.

cuối bài thơ là một cảm xúc khó quên. Bài thơ việt bắc không chỉ là bài thơ tiêu biểu của thơ ca kháng chiến mà còn là tác phẩm thể hiện rõ nét phong cách thơ của cụ. Với sự vận dụng sáng tạo thể thơ lục bát, thành công của cặp đại từ “anh – ta”, bài thơ đã có chỗ đứng vững chắc trong lòng người đọc và nền thơ ca cách mạng Việt Nam.

…………

tải tệp xuống để xem thêm phân tích về Việt Nam

Nguồn: https://truongxaydunghcm.edu.vn
Danh mục: Văn Học

Related Articles

Back to top button