Giá trị hiện thực và nhân đạo trong Vợ nhặt (12 mẫu) – Văn 12

Giá trị hiện thực của tác phẩm vợ nhặt

Video Giá trị hiện thực của tác phẩm vợ nhặt

Phân Tích Giá Trị Thực Tế Và Con Người Trong Việc Chọn Vợ / Chồng gồm 12 bài văn mẫu hay đạt điểm cao của các bạn học sinh trên cả nước. từ đó giúp các em học sinh lớp 12 có nhiều ý tưởng mới, ý tưởng hay, ý đẹp khi viết văn. đồng thời giúp bạn có vốn từ vựng phong phú hơn khi thể hiện bản thân.

giá trị hiện thực và nhân đạo trong việc chọn vợ đã gieo vào lòng người đọc niềm ngậm ngùi, thương cảm cho cuộc đời cơ cực. đồng thời động viên họ đoàn kết, đấu tranh để giải phóng cuộc sống. vậy đây là 12 bài văn nghị luận về giá trị hiện thực và nhân đạo của người vợ hay nhất, các bạn cùng theo dõi tại đây.

nêu ra những giá trị thực tế và nhân văn ở người vợ

i. giới thiệu:

  • kim uni là một nhà văn viết truyện ngắn chuyên nghiệp, tập trung vào những khung cảnh nông thôn và hình ảnh của một người nông dân lao động.
  • vợ anh ta đã sưu tập một bộ sưu tập những con chó xấu xí. Đó là một câu chuyện đáng chú ý. về người nông dân, miêu tả cảnh ngộ éo le của họ trong nạn đói năm 1945 mà còn ca ngợi đức tính tốt đẹp và sức sống kì diệu của họ. vì vậy đây là một truyện ngắn giàu giá trị hiện thực và nhân đạo.

ii. nội dung:

* giá trị thực tế

– phản ánh chân thực cuộc sống của nhân dân ta trước cách mạng tháng Tám: nạn đói khủng khiếp khiến nhiều người mất việc làm:

  • con người lầm than, cuộc sống ngày càng lầm than: “người chết như lá úa”, “ba bốn xác nằm bên vệ đường”, người sống thì tiều tụy, da nâu. trôi như những bóng ma, xám xanh như những bóng ma, …
  • không gian chỉ tràn ngập tiếng kêu yếu ớt, tiếng quạ kêu thiết tha.
  • mùi xác chết, mùi ẩm ướt của rác thải, mùi của những đống rác đang cháy.

– Đặc biệt, bữa cháo cám ngày đói ở nhà người chị họ đã phản ánh cuộc đời đáng thương của người đàn ông.

– những con người đói khổ, phải tự đấu tranh cho cuộc sống của mình: ngày ngày kéo xe lam để sống qua ngày, bà cụ vẫn phải đi làm thuê, …

– bình luận: ranh giới giữa người và ma, giữa sự sống và cái chết rất mong manh. không gian của khu phố không khác lắm so với nghĩa trang

* bày tỏ sự thương cảm đối với cuộc sống bi thảm của người nghèo trong nạn đói năm 1945

– cái đói đã khiến con người trở nên rẻ rúng và vô giá trị:

  • Thường thì nhân vật mà người vợ chọn, vì quá túng thiếu, không màng danh lợi, cả tin vào những trò đùa của đám bạn mà “chui rúc xin ăn”, đành chấp nhận quay về. với tư cách là vợ.
  • chính nhà nước cũng vậy.

* gián tiếp tố cáo tội ác tày trời của bọn thực dân phát xít đối với nhân dân ta

– “một mặt chúng nhổ lúa, trồng đay, mặt khác bắt chúng phải nộp thuế”, chúng không cho nhân dân ta một con đường sống, đẩy nhân dân vào bước đường cùng.

– cuối truyện, nghe tiếng trống thúc giục thu thuế, bà lão cũng thất vọng kêu lên: “thế gian này chắc không tồn tại được đâu các con ạ”

* tôn trọng khát vọng nhân văn

– tác phẩm đề cao khát vọng sống mãnh liệt của con người: một mặt ta thấy người vợ mất nhân cách trong cảnh nghèo khó, nhưng mặt khác chính là khát vọng sống mãnh liệt, không chịu khuất phục. bất kỳ cơ hội nhỏ nào để sống, ngay cả khi kết hôn.

– điều mà ta thấy ở tràng giang là khát vọng hạnh phúc chân thành, không vì sự ngây ngô mà đem vợ nhặt, sâu thẳm trong đó là khát vọng có một gia đình như bao người bình thường khác.

– câu chuyện còn thấm đẫm vẻ đẹp của lòng nhân ái: vì tình yêu chân thành, bà sẵn sàng mời cô đi ăn dù không giàu có, vì tình yêu, bà lão chấp nhận đứa con dâu của mình. được thu thập mặc dù cô ấy không giàu. trong hoàn cảnh nghèo khó.

– dù bị đẩy vào đường cùng nhưng con người vẫn có niềm tin vào cuộc sống:

<3

* chỉ ra lối thoát để mọi người có cuộc sống tốt đẹp hơn

– Từ câu chuyện phá kho thóc do người vợ kể và hình ảnh những người chết đói, những ngọn cờ đỏ trong tâm trí cô ấy là dấu hiệu của cuộc cách mạng, khiến người đọc tin tưởng rằng tình nghĩa vợ chồng đã có mặt trong cuộc tập đoàn. của những người tham gia tổng khởi nghĩa.

iii. kết luận:

  • khái quát các giá trị nghệ thuật: xây dựng tình huống trần thuật độc đáo, miêu tả tâm lí nhân vật, ngôn ngữ giản dị, thân thuộc.
  • tác phẩm thấm đẫm giá trị nhân văn. : bày tỏ niềm thương cảm sâu sắc đối với số phận con người trong cảnh nghèo khổ, lên án, tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân phát xít, từ đó tác giả càng trân trọng những phẩm chất tốt đẹp của con người.

.

tải tệp xuống để thấy được những giá trị nhân văn và thực tế hơn ở người vợ của bạn

giá trị hiện thực và nhân văn trong việc kén vợ – mẫu 1

trong suốt sự nghiệp của mình, tuy không viết nhiều nhưng kim uni là một trong những nhà văn để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Nhặt vợ là một công việc như vậy. câu chuyện này đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả nhiều thế hệ bởi giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc.

nhặt được vợ là tác phẩm viết lại một chương trong lịch sử lâu đời của xóm mà kim uni viết vào năm 1946. vở kịch kể lại số phận của những con người bị cuộc sống nghèo khổ khinh miệt. nhưng trong hoàn cảnh ấy, người dân xóm giềng vẫn khao khát vượt lên trên cái chết, buồn có vui, nhưng hy vọng sau này, do hoàn cảnh chiến tranh, bản thảo của tác phẩm sẽ bị thất lạc. Sau năm 1954, nhân một lần làm báo kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám, Kim Uni nhớ ngay và viết một câu chuyện do vợ mình sưu tầm và in trong Tuyển tập những chú chó xấu xí (1962). Vợ nhặt là một câu chuyện độc đáo, trong đó anh đã xây dựng một câu chuyện khác thường: giữa những ngày đói kém hoành hành, người chết như xác lá, không ai dám chắc anh sẽ sống sót qua nạn đói đó, nhưng anh lại “nhặt” một cái mới. . phụ nữ để kết hôn. Từ câu chuyện tìm vợ, tác giả thể hiện một sự đồng cảm cảm động, một tình yêu thương ấm áp đối với những người cùng khổ.

Trước hết, phải nói rằng nạn đói năm 1945 đã được nhiều nhà văn lo lắng và phản ánh. chắc hẳn chúng ta vẫn chưa thể quên được hậu quả, nỗi ám ảnh của anh trong bữa cơm toàn những người đàn ông cao tay. đói, nhưng vì nó, người ta có thể liều cả danh dự và nhân phẩm của mình chỉ để được ăn một bữa no nê rồi không chết đói. nhưng dường như với Vợ người ta, tác giả kim lan muốn tạo ấn tượng khác về cái đói qua hình ảnh xóm trọ lụp xụp, xơ xác. ấn tượng đó ngay từ đầu là do tiếng “quạ kêu trên cây gạo đầu chợ cất lên thiết tha” và “tiếng khóc yếu ớt của người chết cứ vang vọng trong đêm”. Chỉ nghe âm thanh đó thôi, tôi đã cảm thấy ớn lạnh chết chóc và tang tóc. ấn tượng ấy còn được gợi lên bởi hương vị rất riêng của xóm: “không khí vẫn còn mùi rác thối và mùi xác chết”. Đó là bầu không khí của một nghĩa địa với mùi chết chóc, đáng sợ. Đặc biệt, cảm giác đói và chết chóc bao trùm khắp cảnh vật. tuy nhiên, ngay trong những dòng đầu tiên của vở kịch, mô tả con đường băng qua khu phố chợ của những người ngồi xổm để đến bến tàu, Kim uni cũng thấy anh ta “gầy” và gầy còm.

Trong không gian đặc biệt ấy, tác giả miêu tả hình ảnh những con người nghèo khổ với cái đói khủng khiếp. chết “như rạ, chẳng phải sáng nào dân phố đi chợ, đi làm đồng không thấy ba bốn cái xác nằm la liệt bên vệ đường”. người sống cũng khổ, vì họ sống, nhưng họ chắc chắn rằng cái chết đang chờ họ trước. đó là hình ảnh “những gia đình từ miền nam dinh, thái bình, đắp chiếu, ôm nhau, ôm nhau, xanh xám như những bóng ma, lác đác khắp lều chợ”. trong số những người may mắn sống sót sau nạn đói có nhân vật “thị”, người phụ nữ sau này sẽ trở thành vợ anh. lần đầu tiên gánh lúa đi tỉnh, anh tìm được và “nhìn mà cười”. nhưng đến lần thứ hai, ngay cả cô cũng không nhận ra người quen cũ vì “hôm nay cô rách nát quá, quần áo tả tơi như tổ đỉa, da trũng hẳn, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ nhìn được hai con mắt”. . không những thế, vì quá đói, chỉ cần nói hi là khóc nên anh đã ngồi ăn một lúc 4 bát bánh. cái đói thay đổi con người. thị trường có thể thách thức miễn là bạn ăn. và cũng vì đói, anh ta đi theo một người đàn ông không rõ nguồn gốc. đó là nạn đói năm 1945 theo một cách cảm nhận và miêu tả kim lân rất độc đáo. Có thể thấy, hình ảnh tổ dân phố trong tác phẩm Vợ nhặt là hình ảnh thu nhỏ của xã hội Việt Nam trước cách mạng, trong đó thân phận con người bị suy thoái, suy thoái đến cùng cực. qua hình ảnh xóm giềng, kim lan muốn góp tiếng nói mạnh mẽ tố cáo hiện thực xã hội đương thời đã gây ra thảm họa nhân đạo thảm khốc cho một dân tộc chịu nhiều tai ương. nạn đói đó đã cướp đi sinh mạng của hàng triệu người ở miền bắc.

nhưng có lẽ việc sử dụng con kỳ lân vàng không chỉ để phản ánh hình ảnh hiện thực của xã hội đương thời, mà hơn thế nữa, trong cái nền của nạn đói, của những mảnh đời lay lắt, khắc khoải ấy, nhà văn muốn thể hiện khát vọng sống, sự mong muốn được hạnh phúc. kim uni từng tâm sự: “Viết về cái chết tôi nghĩ đến sự sống”; những người khốn khổ của ông, ngay trước khi chết, vẫn nghĩ về cuộc sống. khát vọng ấy, niềm tin ấy được kim uni thể hiện trong một tình huống có một không hai: “nhặt” được vợ.

nhặt được vợ, chẳng phải anh không biết thời điểm “thóc cao, gạo kém, còn không biết nuôi thân, còn đèo bòng”. nhưng cuối cùng anh vẫn tặc lưỡi: “thôi kệ!”. Cái tặc lưỡi ấy mang theo một quyết định vô cùng quan trọng của cuộc đời, bởi với nó, bạn đang đánh cược với cái đói và cái chết để có một cuộc sống bình thường như bao người khác. Đó là việc có một người vợ đã có gia đình trở lên, có một gia đình nhỏ mà dù đã ngoài ba mươi, chưa bao giờ dám nghĩ đến. chỉ vì anh ta xấu xí, thô thiển, khùng khùng, một cư dân, và quan trọng nhất là vì anh ta nghèo. Sau khi đón vợ, anh dẫn cô đi chợ mua: một cái rổ, một số thứ nhỏ, hai xu dầu, một bữa ăn đầy đủ, sau đó họ mang về nhà. và kể từ đó, những trang viết của xứ kim chi dù vẫn nhuốm màu đói khát chết chóc nhưng đã bắt đầu bừng sáng lên bằng hơi ấm của tình người và niềm hy vọng vào tương lai.

Hy vọng đó, ngay từ đầu, đã được Kim uni gửi đến ngôi làng của cặp vợ chồng. vẫn cảnh ấy, vẫn con đường nhỏ qua khu phố chợ đến bến đò, nhưng hôm nay dường như đã có chút thay đổi. Vẫn là thân hình to lớn, mập mạp như cũ, nhưng hôm nay “khuôn mặt anh ấy trông hưng phấn lạ thường.” anh cười một mình và đôi mắt lấp lánh. anh cũng là một gã khờ khạo, khờ khạo, nhưng hôm nay có điều gì đó rất khác. Và trong một khoảnh khắc anh dường như quên hết những cảnh tăm tối của cuộc sống hàng ngày, quên đi cái đói khủng khiếp đang đe dọa cô, quên đi những tháng ngày sau này. trở thành một đứa trẻ lớn và dịu dàng. và dường như nó không chỉ có cảm giác mới “lạ”, “mới”, mà cả những người hàng xóm cũng đang chia sẻ như vậy. đầu tiên là những đứa trẻ, những buổi chiều trước đó với một cơn đói khủng khiếp, “Họ ngồi ủ rũ dưới góc tường, không nhúc nhích”, nhưng hôm nay thấy sự trở về cùng người phụ nữ lạ, những tiếng reo hò phấn khích như một phát hiện: “vua hài”. và từ phía sau cánh cổng tối tăm của các quầy hàng trong chợ, những người lớn thì thầm nói và nhìn theo bằng mắt. một số người đùa giỡn, những người khác thở dài lo lắng. chính là họ trăn trở về phần đó: “Đất này còn gánh nợ đó. Không biết họ có nuôi nhau mà sống được ngày này không? “Có lo cũng phải thôi, vì họ là người nghèo của xóm, họ hiểu thế nào là tận cùng khổ, thế nào là giá trị của cuộc sống trong thời buổi” cơm áo gạo tiền “này. “. Họ lo lắng, họ có khiếu hài hước, nhưng dù sao, chuyến đi đến ngôi làng của hai vợ chồng cũng đã tạo nên sự sinh động mới cho cuộc sống vốn dĩ tăm tối ở đây.” vào cuộc sống tối tăm và đói khổ của họ. ”

Niềm khao khát được sống cũng được Kim Uni thể hiện trong một tình huống khá xúc động: cuộc chạm trán giữa mẹ chồng và con dâu. một nhân vật khá đặc biệt – một bà mẹ già, có lẽ kim lan cần bà cụ thêm mối lương duyên với người vợ “góp nhặt” và từ đó hoàn thiện ý tưởng về một gia đình hơn từ hình ảnh người mẹ già nghèo khổ nhưng rất nhân hậu. và tấm lòng bao dung.

Bà mẹ già trước hết sửng sốt: “quái, tại sao lại có một người phụ nữ đứng ở đầu giường của con trai mình?” bởi vì bản thân cô ấy thậm chí còn không tin vào sự thật này, càng không phải là cô ấy. Khi biết đó là vợ của con trai mình, bà lão đã đánh giá cuộc hôn nhân của họ ở một góc độ khác. Qua trải nghiệm cuộc đời đầy cay đắng, tủi hờn, bà lão thấy rằng mối lương duyên này không nên có, bởi “người ta lấy chồng vì con cái trong lúc ăn nên làm ra, mới mong có. bọn trẻ. sau này mở mắt ra sẽ ra sao… còn em ”… đó là những đắng cay của cuộc đời mà chị sợ rằng sau này vợ chồng em sẽ tiếp tục gánh chịu. “Không biết chúng có thể nuôi nhau qua cơn đói này không?” Sự lo lắng đó là một đặc điểm tâm lý bình thường, nhưng điều đáng quý nhất ở cô ấy chính là tấm lòng nhân hậu. tuy nhiên, khi thấy con dâu “nằm sấp, vuốt ve vạt áo rách nát, bà lập tức đổi ý: chỉ trong cái đói, cái nghèo này người ta mới lấy con, con, con”. lấy chồng … “đúng vậy, bà cụ đã cảm nhận rất sâu sắc về hoàn cảnh hiện tại rằng” bổn phận là một người mẹ, bà đã không thể lo cho các con của mình … “từ đó suy nghĩ, bà ngọt ngào nói. nói với con dâu: “Đã có phận thì ở với nhau cũng hạnh phúc” lời nói tuy nhẹ nhàng nhưng thấm đẫm bao nghĩa tình, đó chính là tình yêu cao cả, vị tha mà ông dành cho. người đàn bà tội nghiệp ấy. Và có một điều mà độc giả Họ sẽ luôn ấn tượng về nhân vật này: đó là trong cả vở kịch, bà lão là người lớn tuổi nhất, “gần đất xa trời”, nhưng bà lão là người duy nhất. trong công việc ai nói nhiều. để hy vọng, đến ngày mai trên hết. Cụ tính: “lấy tre đan đầm mà thôi” là đang nghĩ cách cho con cháu chút riêng tư chứ tội nghiệp như xưa. nhà phụ nữ có thể chỉ là cái tổ ấm thì hơn nữa, “khi nào có tiền thì mua mấy con gà” … giữa bộn bề cơm áo gạo tiền. z tội nghiệp bà già còn tính chuyện gà trống nuôi con. chưa lên nhưng họ đã tính “sắp có gà”. xa hơn là một giấc mơ xa vời, một cái gì đó đau đớn, một ngày mai, “và may mắn thay, ông trời đã ban cho anh một điều may mắn. làm sao bạn biết? không ai giàu, không ai khó, ba đời? nếu có thì con cháu sau này “. giản dị mà đẹp đẽ biết bao, vì mẹ không chỉ hy vọng và ước mong cho bản thân. Người mẹ ấy sống vì con vì cháu, mẹ tìm thấy ý nghĩa cuộc đời mình trong việc nuôi dạy những đứa con và ước mơ với con cháu mai sau.để những năm tháng cuối đời không phai nhạt vì nghèo đói, tuổi già.Đọc tác phẩm, ta ấn tượng mãi về giọng kể nhẹ nhàng, chậm rãi của người mẹ già, người mẹ. những điều tử tế mà ông khuyên răn con cháu, đặc biệt là ấn tượng về ước mong cuộc sống mai sau với hy vọng mới tốt đẹp hơn, càng đáng quý và đáng trân trọng hơn khi giữa cảnh nghèo khó, những người dân lao động vẫn tin tưởng người khác và không ngừng ước mơ.

Niềm hy vọng đó còn được con kỳ lân kim loại kéo dài cho đến sáng hôm sau, sau cái đêm anh ta có vợ. và tôi có cảm giác rằng Kim kỳ lân đã cố tình chọn thời điểm mở vở kịch là lúc chạng vạng với ánh đèn xanh xám nhạt dần, rồi gần cuối vở kịch cô ấy đã chọn thời điểm bắt đầu. ánh nắng ban mai chói chang trong đôi mắt cay xè của cô. Mặt trời đó có phải là ánh sáng của một ngày mới, là niềm hy vọng bất diệt của những người khốn khổ? và nữa, khi câu chuyện bắt đầu, chúng ta chỉ thấy hình ảnh một chàng trai lẻ loi bước cao thấp trên con đường nhỏ dưới cái nắng đói khát, vậy là đây, chúng ta đã có một gia đình rồi. gia đình và mọi người đang xăm trổ và quét nhà. và rực rỡ. đó là một cảnh mới trong cuộc sống của họ. khi ông tỉnh dậy, dường như ngôi nhà của ông đã bị biến đổi hoàn toàn: “Nhà và vườn hôm nay đã bị quét sạch. mấy bộ quần áo rách bươm như tổ đỉa mười mấy năm nằm chật cứng một góc nhà đã được trông thấy và đem ra ngoài hiên. Vẫn còn hai cái thùng nước để cạn dưới gốc cây ổi đầy nước. đống mùn đáng tin cậy ở hành lang đã được dọn sạch. ” Các thành viên trong gia đình có nghĩ rằng chỉ cần giữ nhà sạch sẽ, ngăn nắp thì cuộc sống sẽ khác? sự hoang vắng, tiêu điều đã được thay thế bằng sự ngăn nắp, và đâu đó trong mọi thứ, từ bờ ao, hàng hiên, góc vườn… sự sống đang hồi sinh từng chút một. và ý thức của gia đình muốn thay đổi cuộc sống đó đã khiến tất cả các thành viên trong gia đình đều thay đổi. còn bà cụ thì thấy nhẹ nhõm, tươi tỉnh lạ thường, bà cũng dậy sớm phụ giúp con dâu quét rác. đặc biệt, “khuôn mặt u ám, ảm đạm của anh ta sáng lên.” tràng thấy tình cảm, gắn bó với gia đình hơn, thấy mình có bổn phận lo cho vợ con mai sau. nhưng có lẽ, thay đổi nhiều nhất vẫn là cô con dâu: hôm nay cô khác hẳn, “trông hiền lành, chỉnh tề, không còn vẻ quậy phá” như ngày anh gặp cô ở chợ tỉnh… mỗi người một vẻ. một suy nghĩ, một hành động, nhưng “mọi người đều quan niệm rằng nếu nhà cửa gọn gàng, ngăn nắp thì cuộc sống của bạn có thể khác đi và công việc làm ăn của bạn sẽ tốt hơn”. thế thôi, hạnh phúc và khát vọng hạnh phúc đích thực có sức mạnh vô cùng lớn, nó có thể thay đổi tính cách của con người, biến họ trở thành một con người khác. có thể nói về ba người, đặc biệt là thi.

nếu câu chuyện kết thúc ở đó, có lẽ Kim uni sẽ vẫn là một nhà văn thời tiền cách mạng và Người vợ của ông sẽ chỉ dừng lại là một tác phẩm theo hướng hiện thực phê phán. ý thức của một nhà văn cách mạng không cho phép kim uni dừng lại ở đó, phải tìm cho nhân vật một lối thoát để giải thoát cho cuộc đời mình và như lời kể của kim uni. vợ tôi nhặt được và viết nhân dịp cách mạng tháng Tám thành công. nhà văn muốn câu chuyện mang “màu sắc của cuộc cách mạng tháng Tám thành công”, có lẽ vì vậy mà con kỳ lân đã xuất hiện cho hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng ở cuối truyện. vẫn là nỗi ám ảnh của cái đói và cái chết, nên mâm cơm đầu tiên đón mẹ chồng mới trông thảm hại “giữa đống đồ ăn tơi tả, một đĩa chuối chát, một đĩa cháo muối” họ đều ăn ngon lành. thức ăn và cố gắng làm cho nhau hài lòng với những câu chuyện về nền tảng kinh doanh của gia đình. nhưng thức ăn đạm bạc còn chưa ăn hết một nửa, mẹ già đã bưng ra một cái nồi hấp gọi là “phomai”, nhưng thực chất là cháo cám, một loại thức ăn không phải là của con người.

Xem thêm: Văn Học Việt Nam Thời Lê Sơ

Bên ngoài đình vang lên tiếng trống trận. tiếng trống và tiếng trống vang lên trên vùng đất đầy chết chóc khiến những con quạ bay loạn xạ, làm đen cả bầu trời. và từ tiếng trống đó, người đọc chú ý đến câu chuyện của cô con dâu “ở bắc giang, thái nguyên, nơi người ta không còn đóng thuế nữa. Thậm chí, chúng còn phá kho thóc của Nhật để chia cho người đói “. Từ câu chuyện đó, Kim Lân đã chọn cho mình một cái kết đầy ý nghĩa:” Trong não tôi vẫn còn thấy đám đói và ngọn cờ đang vẫy … “.

bằng tài năng nghệ thuật của mình, Kim uni đã tạo nên một tình huống truyện độc đáo và ý nghĩa: tình tìm vợ, cảnh vợ chồng giằng co trong đêm tối với tiếng khóc ngất của người chết. nhưng qua hoàn cảnh đó, điều mà kim uni muốn nhắn nhủ đến mỗi chúng ta là niềm tin và hi vọng vào cuộc sống. tình yêu và hạnh phúc của mỗi con người có thể được sinh ra từ nỗi buồn và sự tuyệt vọng lớn nhất.

giá trị hiện thực và nhân văn trong việc nhặt vợ – mẫu 2

Kim uni là một nhà văn tài năng và anh ấy đặc biệt có duyên với những tác phẩm có tính chất rất đơn giản, đặc biệt là những tác phẩm về những điểm đến khó khăn. tác phẩm “Vợ nhặt” là một trong những tác phẩm tiêu biểu trong đó tác giả cho ta một cái nhìn rất chân thực về những người nông dân trong hoàn cảnh nghèo khổ, nô lệ. tác phẩm thể hiện rõ hai giá trị, giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực rất sâu sắc.

với tư cách là một nhà văn viết về cánh đồng, Kim Lan là một người rất hiểu người nông dân, và nhận thức được nạn đói khủng khiếp này, mà vợ ông thấy được tái hiện là một hình ảnh cô đọng nhưng đầy đủ, đủ, khái quát nhưng cụ thể, bắt nguồn từ một ấn tượng rõ ràng.

Xuyên suốt vở kịch, chúng ta có thể thấy được bức tranh toàn cảnh của nạn đói khủng khiếp năm 1945 với cảnh dân chúng đói khổ “khiêng kéo nhau như những bóng ma, quăng quật khắp lều chợ”, “bóng đè”. im lặng như những bóng ma ”, rồi“ xác chết như những chiếc lá chết ”,“ cái xác nằm xiềng xích bên đường ”,“ không khí vẫn còn mùi xác người ”, rồi“ mùi trầm hương cháy khét lẹt trong những ngôi nhà. người chết trong cơn gió thoảng qua ”và“ tiếng khóc giữa đêm khuya ”… để rồi cái đói đã lan ra xóm giềng, vồ vập gia đình anh em, bủa vây và đe dọa số phận của tất cả con người, không trừ ai. .

tác phẩm còn vẽ nên “bức tranh về số phận con người bên bờ vực của nạn đói:” những khuôn mặt tối tăm, hốc hác trong cuộc sống đói khát “,” không nhà có lửa “. Ngay cả những đứa trẻ ngồi ủ rũ trong góc từ đường phố, không di chuyển. bộ ngực nhô cao thon thả ”… số phận của nàng chẳng khác gì“ ngôi nhà hoang đứng vườn cỏ um tùm ”bữa đói bữa cháo cám“ đắng ngắt, nghẹn họng ”…

Người vợ của Kim Lân cũng có khát vọng cháy bỏng là có một mái ấm gia đình trọn vẹn. Niềm khao khát mái ấm gia đình được thể hiện chân thực và sâu sắc qua tâm trạng của các nhân vật: từ bờ vực thẳm của cái chết, họ đã dám khao khát mái ấm gia đình, sự sống đích thực và vẻ đẹp của con người. vì vậy, mặc dù “được chọn” bởi suy nghĩ “gạo này, ngay cả cơ thể mình không ăn được, mình vẫn đậu”, nhưng vẫn “tsk, thôi kệ!” và đưa vợ về nhà. trong công việc nhặt vợ ”, anh ta cảm thấy vừa xấu hổ vừa tự hào khi đưa vợ đi khắp xóm, bởi có“ cái gì mới, lạ, chưa từng thấy ”mà được“ ôm ấp, vuốt ve hết cả da thịt ”. thịt. .,”; và hơn hết, ngay buổi sáng đầu tiên kết hôn, anh thấy cuộc đời mình bỗng chốc thay đổi: “anh thấy yêu và gắn bó lạ lùng với tổ ấm của mình”, “một nguồn vui và cảm xúc bất chợt trào dâng trong tim anh”, “bây giờ anh đã trở thành một người đàn ông, anh cảm thấy mình có bổn phận chăm lo cho vợ con sau này “. Đây là một đoạn văn giàu cảm hứng nhân đạo với các nhân vật của anh. để mọi người trân trọng những thứ xung quanh họ hơn.

ở “Vợ nhặt”, giá trị thực tuy chưa được sáng tỏ nhưng cuối truyện đã hiện lên trong tâm trí khán giả: “cảnh người nghèo chen nhau chạy trên đập. Có lá cờ đỏ trong trước mặt họ. rất lớn ”. Đoàn người đi phá kho thóc Nhật và cờ Việt Minh. đây là hiện thực nhưng cũng là ước mơ của những người như bạn.

Những câu chuyện không chỉ thể hiện giá trị hiện thực mà còn mang giá trị nhân đạo sâu sắc. ở đây ta có thể nhận ra tình yêu thương giai cấp, đùm bọc lẫn nhau của những người nghèo khó được thể hiện rất đẹp đẽ và cảm động qua tấm lòng của bà cụ dành cho con trai và con dâu. ngoài tình yêu thương con cái – nhất là với một người phụ nữ xa lạ bỗng chốc trở thành con dâu mới – còn có tình yêu giai cấp của những người nghèo khổ. bà già gọi cô là “con trai”, tôn trọng cô và nói chuyện thân mật với cô trong đêm đầu tiên họ gặp nhau. và sáng hôm sau, bà lão cố gắng làm hài lòng con trai và con dâu. tại nơi làm việc ”chi tiết nồi cháo cám trong bữa cơm đói ngày đón dâu mới gây xúc động mạnh. Đó không chỉ là tấm lòng của một người mẹ yêu thương con mà trong tình yêu thương ấy còn có cả sự vị tha cao cả.

câu chuyện kết thúc bằng một cái kết đầy sức gợi, gợi cho người đọc nhiều cảm hứng khám phá và chiêm nghiệm. Dưới ngòi bút tài hoa của Kim Lân, ta có dịp hòa mình vào không gian ấy và nhận ra vẻ đẹp của hai giá trị lớn: giá trị hiện thực sâu sắc và giá trị nhân đạo cao cả.

giá trị hiện thực và nhân văn trong việc nhặt vợ – mẫu 3

Kim uni đã từng bộc bạch “ý nghĩa của lịch sử: trong cái nghèo cái đói, trong bất cứ hoàn cảnh khốn khó nào, người nông dân ngụ cư vẫn khao khát vượt qua chết chóc, hoang tàn mà hạnh phúc, có hy vọng” (cách mạng, kháng chiến và văn học). cuộc sống – biên tập tác phẩm mới, 1985)

với ý định như vậy, kỳ lân kim đã chọn nạn đói khủng khiếp vào năm dậu làm bối cảnh cho câu chuyện, một điều rất tốt lành. người vợ đầu tiên sưu tầm một câu chuyện cổ tích về cái đói. chỉ một vài từ “nạn đói đang đến…” cũng đủ gợi lên trong lòng người Việt một nỗi nhớ da diết về một trận đại nạn dân tộc đã xóa sổ khoảng một phần mười dân số nước ta. giống như từ kim loại kỳ lân, nguy hiểm đó “tràn qua”, tức là mạnh như một thác nước. cách miêu tả của nhà văn gợi lên một nỗi ám ảnh ảm đạm qua hai kiểu hình ảnh: con người năm đói và không gian năm đói. ông miêu tả chân dung người chết đói với “khuôn mặt đen như mực”, nhưng điều đáng sợ nhất là ông đã hai lần so sánh người dân với ma: “những gia đình từ các vùng phía Nam dinh, đội chiếu bắt họ, lùa họ đi đeo bám. với nhau như những bóng ma “, và” những bóng đói mà bước đi âm thầm như những bóng ma “. cách so sánh đó cho thấy một cảm nhận đặc biệt của kỳ lân vàng về thời kỳ kinh hoàng: đó là thời điểm mà ranh giới giữa người và ma, sự sống và cái chết mong manh như sợi tóc. cõi u tịch mờ ảo cõi dương gian, cõi u minh bờ vực thẳm âm u. trong không gian của thế giới đó ngổn ngang người sống và người chết, tiếng quạ kêu “thống khổ” cùng với “mùi xác chết bị khiêu khích” càng làm tăng thêm cảm giác u ám của tang tóc. trên thực tế, cái đói bộc lộ sức mạnh tàn phá sự sống của nó đến mức khủng khiếp. trong bối cảnh như vậy, kim lan đặt tình cảm, quả thật là chuyện lớn. Đúng như kiểu đóng thế “chọc ghẹo” trong phim, Kim Uni tạo nên một “Xen” thực sự bi thảm. khi bụng chưa no, dù là sản phẩm tinh thần kỳ diệu nhất của con người là tình yêu thương cũng không tránh khỏi sự biến dạng. trời ơi, cả câu chuyện làm tôi khóc thét: bốn bát bánh chưng ngày ấy làm nên một câu chuyện tình, một nồi cám ngày đói cũng đủ làm một đám cưới … ngòi bút khắc khổ của kim lân không hổ danh. thực tế nhưng theo đuổi thực tế đến tận cốt lõi, tạo cho câu chuyện một “nguồn” đặc biệt, nhăn nhúm, u ám, tăm tối và tôi phải nói là hơi u ám.

nhưng mối quan tâm chính của người viết không phải là để buộc tội vợ mình, mà là tập trung vào điều khác quan trọng hơn. Từ bóng tối của hoàn cảnh, Kim Uni muốn tỏa sáng một chất thơ đặc biệt của tâm hồn con người. mặt tối của chủ nghĩa hiện thực buồn bã là đòn bẩy cho mặt sáng của con người, nơi tỏa ra ánh hào quang đặc biệt của một chủ nghĩa nhân văn sâu sắc cảm động.

Xem Thêm : Tóm tắt các nhân vật trong tam quốc diễn nghĩa ngắn gọn, hay nhất

Trong văn học, người ta đề cao chữ tâm hơn chữ tài. nhưng nếu tài năng không lớn đến một mức độ nào đó, thì làm sao phát lộ được tâm ý kia? Vợ người ta cũng vậy: Tấm lòng chân thành của Kim Lân làm rung động người đọc, trước hết là khả năng dựng truyện và sau đó là cách kể của bà. tài năng kể chuyện ở đây đậm nét nên tình huống truyện độc đáo. ngay cả cái tựa bài Vợ nhặt cũng chứa đựng tình cảnh như vậy. Trong một cuộc phỏng vấn, Kim Uni hào hứng giải thích “hái nghĩa là hái, hái không mục đích. Trong nạn đói năm 1945, tưởng như người lao động khó thoát chết. Bóng tối ập xuống. Trong hoàn cảnh đó, giá trị của một con người chính là rẻ lắm, người ta có thể có được vợ, chỉ nhờ mấy bát bánh canh bán ngoài chợ – đúng là “nhặt được vợ như tôi đã nói trong truyện” (báo văn hóa số 19, ngày 8 tháng 5 năm 1993 -tr5), như vậy thiêng (vợ) đã trở nên rẻ rúng (thu) nhưng tình huống truyện lại có một sợi dây chung khác: chủ thể của hành động, “thu” là cánh đồng, một anh chàng xấu xí nghèo nàn, một người hàng xóm là chết đói và đột nhiên anh ta lấy vợ, thậm chí được vợ đi cùng là một điều gì đó lạ lùng, lạ lùng đến mức tạo nên hàng loạt bất ngờ cho thị, cho bà lão và cho chính trường: “cho đến bây giờ, anh vẫn ngờ ngợ rằng mình không. vậy. Vậy? bạn đã kết hôn chưa? ” tình huống trong cảnh gợi ra một trạng thái tinh tế của trái tim con người: một trạng thái bất định khó nói – mọi thứ đều thoáng qua, như thể không có. đó là hạnh phúc hay nỗi buồn. nụ cười hoặc nước mắt ? … vị trí đặc biệt của tâm trạng này đã làm cho ngòi bút truyện của Kim uni như thơ.

Nó không đủ để tạo nên một câu chuyện hay. tài dựng chuyện của anh ta cũng giống như tài năng đốt pháo của anh ta. nếu có cháy thì châm đúng cầu chì, còn nếu có nhiều vòi rồng thì vẫn tiếp tục phun như bình thường. do đó, khả năng xây dựng câu chuyện phải gắn với cội nguồn của câu chuyện để tạo ra chiều sâu và sự hấp dẫn. Cách kể chuyện của Kim Lân được thể hiện qua việc sử dụng đặc biệt thành công ngôn ngữ chất phác của người nông dân, qua cách viết chạm đến cốt lõi của đời sống hiện thực, khiến từng câu chữ như được “nhặt” ra từ chính cội nguồn của cuộc sống. nhưng quan trọng nhất vẫn là ở ngòi bút hiện thực tâm lý. Phải nói tình huống truyện trước rất được Kim Uni ưu ái làm nổi bật dòng tâm lý vô cùng tinh tế trong từng nhân vật. Rất nổi bật là có hai trường hợp: bà lão và bà lão. đây là hai loại phản ứng tâm lý trước một tình huống giống nhau, nhưng không giống nhau. trước hết là trạng thái khiêm tốn nhưng bạn trai có thể coi là hạnh phúc. hạnh phúc thực sự luôn gây ra một cú sốc tâm lý lớn. sự chấn động ở tràng tạo nên một mạch ba chiều tâm lý. sự khởi đầu là tuyệt vời. hạnh phúc gây ra cho men trong đại tràng một cảm giác mới lạ tuyệt vời. cảm giác ấy ngấm vào toàn bộ con người anh ta: vừa đắm chìm trong tinh thần (trong cơ thể nhẹ nhàng bay bổng như người trong mộng vừa thoát ra) và tỏa ra, hiện thực hóa trong một cảm giác xác thịt (một cái gì đó mới mẻ, lạ lùng, chưa từng thấy trong đó). người đàn ông tội nghiệp, ôm và vuốt ve làn da của mình, như thể có một bàn tay nhẹ nhàng vuốt ve lưng). với bút pháp hiện thực, những đoạn văn như thế đã đạt đến “bút pháp thần kì”, bởi vì tư cách của nhà văn là một với trạng thái của nhân vật (hay còn gọi là năng lực “hóa thân” trong văn xuôi, năng lực “hóa thân” trong thơ. ). và rồi sự ngạc nhiên vui sướng đó nhanh chóng biến thành niềm vui cụ thể. đó là niềm vui của hạnh phúc gia đình, niềm vui giản dị nhưng lớn lao không gì sánh được. Chẳng trách một người nổi tiếng như Tsecnusexski từng mơ ước: “Tôi sẽ đổi nghề nếu biết rằng trong căn phòng nhỏ ấm áp có một người phụ nữ đợi tôi đến nhà ăn tối”. Chàng thanh niên nghèo Kim Lân đã thực sự có được niềm vui như thế: “Anh bỗng thấy mình tình cảm và gắn bó đến lạ lùng. Anh đã có gia đình, sắp sinh con với vợ rồi. Mình có con rồi. Ngôi nhà như nơi nương tựa mưa nắng. nguồn vui rộn ràng bỗng tràn ngập lòng tôi. ” một niềm vui thực sự cảm động, pha trộn giữa thực tế và ước mơ. Ở điều này, người anh của Kim Lân còn may mắn hơn cả nam phụ: hạnh phúc nằm trong lòng bàn tay, nhưng chưa kịp chạm tay thì xã hội đen tối đã cướp đi. có một chi tiết rất đắt về con lân vàng: “ông xăm trổ chạy ra giữa hiên cũng muốn làm một việc gì đó để tham gia tu sửa nhà”. so với cái tạo dáng “gõ vòi” ở đầu vở, hành động “xăm trổ” này của tràng là một đột biến lớn, một bước ngoặt làm thay đổi cả số phận và tính cách của tràng: từ đau khổ thành sung sướng, từ chán chường thành yêu và quý. cuộc sống, từ ngây thơ đến lương tâm. tuy nhiên, kim lan lại thấy có điều kiện để lồng vào dòng suy nghĩ một ý thức sâu sắc về bổn phận: “nay đã thành đàn ông, anh thấy mình có bổn phận chăm lo cho vợ con mai sau”. đàn tràng đã thực sự “hồi sinh tâm hồn” – đó chính là giá trị to lớn của hạnh phúc. bà lão “xăm trổ ngồi vườn khuya một mình” táo bạo nhưng vẫn bấp bênh, lẻ loi. hình xăm đại tràng mới thực sự khỏe mạnh, thật là tự tin!

bình luận về câu chuyện nhặt vợ, không hiểu sao có một cụm từ kim uni rất quan trọng mà mọi người cứ bỏ qua. đó là kết thúc của câu chuyện: “Tôi vẫn còn nhìn thấy những người dân đói và lá cờ đỏ vẫy trong tâm trí của tôi…”. một kết luận như vậy, có trọng lượng nghệ thuật quá lớn, sẽ rơi vào cấu trúc khép kín của văn học hiện thực phê phán. sự bổ sung chi tiết này tạo ra một kết cấu mở khiến cho Người vợ thực sự rời khỏi thể loại văn học 1930 – 1945 và chuyển sang thể loại văn học mới. nhờ đó, câu chuyện cổ tích đã khép lại, nhưng một định mệnh mới tiếp tục mở ra. “lá cờ đỏ” đó như một dấu hiệu của một sự đổi đời. nhân vật tiếp tục hướng tới niềm tin, hướng tới cuộc sống. “lá cờ đỏ” dường như gợi ra sự đồng tình triệt để về một số phận bế tắc như anh em, gà trống, chi phèo … chi tiết này không phải là chimera, thần tiên ảo tưởng mà có cơ sở vững chắc ngoài đời.

Diễn biến tâm lý của ông lão có phần phức tạp hơn nhân vật. nếu ở con trai, niềm vui làm chủ, tâm lý phát triển theo chiều dọc phù hợp với ông bố chồng trẻ là niềm hạnh phúc ngập tràn thì ở người mẹ, tâm lý vận động theo chiều hướng xẹp xuống, phù hợp với sự cảm xúc của một thanh niên giàu lòng trắc ẩn trong chiều sâu của một ông già từng trải và nhân hậu.

Giống như trẻ em, sự khởi đầu của tâm lý ở người già là điều đáng ngạc nhiên. con trai ông bối rối bởi một điều gì đó mà ông dường như không hiểu. Cô gái xuất hiện ở nhà anh ngay phút đầu tiên là một hiện tượng kỳ lạ. Sự ngạc nhiên của ông lão càng thêm sâu sắc bởi hàng loạt câu hỏi tò mò: “sao lại có đàn bà trong đó? bà gì mà lại đứng như vậy ở đầu giường của con trai mình? Chào tôi lần nữa với ông? Không phải là con trai. Ai vậy?” thế rồi ôi thôi trái tim của người mẹ với đứa con đang tuổi ăn tuổi lớn rất nhạy cảm vậy tại sao kỳ lân kim lại để nhân vật mẹ hoang mang lâu như vậy ?: Có phải hoàn cảnh nghèo khó đã làm mất đi sự nhạy cảm đó trong mẹ.

Nếu ở tràng, sự ngạc nhiên chuyển trực tiếp thành niềm vui thì ở người cao tuổi, diễn biến tâm lý phức tạp hơn. sau khi hiểu ra mọi chuyện, bà cụ “lặng lẽ cúi đầu”. Tình yêu thương của một người mẹ nhân hậu thật bao dung biết bao: “không biết chúng có thể tự kiếm ăn và sống sót qua cơn đói này không?”. trong từ “họ”, người mẹ đã chuyển từ yêu thương con trai mình sang yêu thương con dâu. trong từ “cúi đầu”, một người mẹ đón nhận niềm hạnh phúc của con trai mình từ kinh nghiệm sống, với cái giá phải trả của cuộc sống nặng nề, với ý thức sâu sắc về hoàn cảnh, không giống như một người con trai nhận hạnh phúc từ một điều cần thiết, với một ước mơ thiêng liêng.

rồi tình yêu chìm vào lo lắng, hình thành trạng thái tâm lý dày vò thường xuyên. tác giả tập trung vào những suy nghĩ của người mẹ: nghĩ về tình mẫu tử không trọn vẹn, nghĩ về ông lão, nghĩ về cô con gái út, nghĩ về nỗi khổ của bản thân, nghĩ về tương lai của mình… để cuối cùng dồn hết sự quan tâm và yêu thương vào một câu đơn giản “chúng tôi sắp kết hôn bây giờ, tôi rất xin lỗi”. Trên đống nỗi buồn, niềm vui của người mẹ vẫn cố gắng tỏa sáng: thật thấm thía, Kim Uni để thứ ánh sáng diệu kỳ ấy tỏa ra từ nồi cháo cám. nghe bà mẹ nói: “chè đây – bà cụ bưng ra bát – chè đây, ngon lắm”. từ “ngon” này phải được cảm nhận theo một cách đặc biệt. Đó không phải là tình cảm vật chất (mùi vị cháo cám) mà là tình cảm thiêng liêng: ở người mẹ, niềm tin vào hạnh phúc của con mình đã biến đắng thành ngọt. Bằng cách chọn hình ảnh nồi cháo cám, Kim Uni muốn thể hiện bản chất con người: trong bất cứ hoàn cảnh nào, tình yêu và hy vọng đều không thể bị tiêu diệt. con người vẫn muốn sống vì lẽ sống, phẩm chất con người thể hiện ở lối sống ân tình, trọng nghĩa. nhưng kim uni không phải là nhà văn viết tiểu thuyết tình cảm. niềm vui của ông lão vẫn là niềm vui nghèo nàn, bởi hiện thực vẫn phũ phàng với nồi cháo cám “đắng ngắt ngộp thở”.

thành công của nhà văn nằm ở chỗ hiểu và phân tích những trạng thái khá tinh tế của con người trong những hoàn cảnh đặc biệt. và vượt lên hoàn cảnh vẫn là một nét đẹp tinh thần của người nghèo. tính ưu việt đó tạo nên nội dung nhân đạo sâu sắc và độc đáo của vở kịch. thông điệp của kim uni là thông điệp mang ý nghĩa nhân văn. trong cuốn tiểu thuyết nổi tiếng đã luyện thép như thế này, nhà văn người Nga colay ostropsky đã để nhân vật paven coocsaghin suy nghĩ: “hãy học cách sống ngay cả khi cuộc sống trở nên không thể chịu đựng nổi”. Nhặt Vợ là bài hát về tấm lòng nhân đạo của những người nghèo khó, những người “biết sống” vì những con người giữa cảnh nghèo khó, đói khổ.

Kim lan điệp đã được chuyển thể thành một truyện ngắn xuất sắc với cách dựng truyện và kể chuyện độc đáo, đặc biệt là lối viết tâm lý tinh tế khiến tác phẩm trở nên thơ mộng và hấp dẫn.

giá trị hiện thực và nhân văn trong việc nhặt vợ – mẫu 4

Nông thôn và người nông dân là chủ đề quen thuộc của thể loại truyện ngắn xưa và nay. Dù phân loại tiểu thuyết văn học theo cách nào, chúng ta cũng không thể bỏ qua tiểu thuyết nông thôn. Với chủ đề đó, nhiều nhà văn đã thành danh và cũng cho ra đời nhiều tác phẩm có giá trị. chẳng hạn, trước cách mạng tháng Tám, có tác phẩm tắt đèn tắt bếp, nam cao chí tôn, tác phẩm con trâu … những tác phẩm này được viết với nội dung đơn giản nhưng ý nghĩa, khá sâu sắc. Trong số những tác giả viết về nông thôn, có một người viết muộn hơn, viết ít, nhưng khi tác phẩm ra mắt đã được mọi người yêu thích và đón nhận. Truyện nhặt vợ của nhà văn Kim Lân là vậy. Với truyện Vợ nhặt, Kim Uni đã viết rất chân thực, sắc sảo và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. thông thường một tác phẩm chỉ có thể trụ vững khi nhà văn có một nội dung mới, một cách nói mới. Công việc của vợ Kim uni cũng vậy.

trước hết, chỉ qua nhan đề Vợ nhặt thôi cũng đã ẩn chứa một tầng ý nghĩa, nó khơi gợi một sự chú ý rất riêng ở người đọc trước khi thưởng thức tác phẩm. vì ngày xưa trên đời người ta nói tìm được cái này cái kia, không ai nói là tìm được vợ bao giờ. Vả lại, lấy vợ là một trong ba việc khó nhất của đời người: “tậu trâu, lấy vợ, làm nhà”. bởi vì hôn nhân, hôn lễ được tổ chức hầu hết theo cách này, rất long trọng. Tuy nhiên, khi anh bất ngờ tìm thấy vợ của mình, điều đó thật bất ngờ và thú vị. và với nội dung đó thì chỉ có nhan đề Người vợ nhặt là đúng và sát với diễn biến của truyện. Với cùng một nhan đề độc đáo, Kim Uni đã thể hiện thân phận của một người nông dân lao động trong bốn mươi lăm năm đói kém, nhặt được vợ dễ như rơm, như cỏ.

một điều quan trọng nữa góp phần tạo nên thành công cho tác phẩm chính là nghệ thuật dựng truyện. Khi chúng ta đọc những trang truyện Vợ Nhặt của Kim Lân, một trí tưởng tượng vô cùng phong phú cứ khơi gợi và lởn vởn trong tâm trí chúng ta. một hình ảnh những người nông dân trong những năm đói kém đã tàn phá một phần tư đất nước, như không có trí tuệ. những người lao động nghèo đói cứ hiện ra trước mắt. Không có nỗi đau nào lớn hơn khi chứng kiến ​​cảnh lũ trẻ “đói đã đến” vì đói khát mà “ngồi hờn không nhúc nhích”. do đó, trẻ em và người lớn phải trôi dạt nơi đây. không một cọng rau cứu đói, không một hạt gạo, một hạt cơm … vì thế những góc tường, góc phố chợ mà người đói nằm “như cọng rạ” càng ghê tởm, đau xót hơn khi có một “mùi gây ra xác chết”.

kim uni đã dựng nên bối cảnh hiện thực một cách độc đáo, nhưng ở khía cạnh khác, cách xây dựng nhân vật và diễn biến tâm lý của nhân vật còn độc đáo hơn. nhân vật hiện lên qua trang văn với tất cả những gì chân thực nhất về người nông dân: người nông dân đói khổ: “áo khoác hờ hững trên vai, hình như đã mỏi, những buổi chiều vất vả đè nặng trên tấm lưng to lớn của anh ta.” ôi, tiếng nói của “ông” mà ta quen gọi bằng chi phèo từ nam cao nay lại hiện ra trước mắt: “ông ngồi khóc, vừa khóc vừa chửi, ông chửi ai? ông chửi đời, ông chửi trời, ông chửi cả dân vu dai, chửi cha mẹ sinh ra mình… ”giọng nó chỉ thế thôi mà ghê tởm? sự thù ghét? khinh bạc? không ! Cả hai nhà văn Kim Lân và Nam Cao đều gợi lên tiếng nói của cô ấy bằng tất cả nỗi đau, niềm thương và sự trân trọng. Ai đã từng đọc Vợ người ta thì làm sao không xúc động và có thể quên được một nhân vật – bà già – mẹ của anh trai.

Ông không biết rằng con trai ông, Trang, đã nhặt được vợ và trở về trạng thái đầu óc của mình, đó là sự giàu có và phức tạp. trong những tháng ngày bất hạnh ấy, cô hiểu. chị ý thức rõ việc lấy chồng, nuôi chồng cho con cái “phải thế này, thế kia”. nhưng trời ơi “cái khó ló cái khôn”. cho dù mọi người có hiểu sự lo lắng đến đâu, thì đó cũng chỉ là một con số. vì vậy, ông lão chỉ biết nghĩ “ngậm ngùi, xót xa”. bà thương con trai rồi bà thương con dâu. cun nhìn người phụ nữ với vẻ thương hại. Ôi trời! Có ai hiểu bạn không? tình yêu thương, sự đồng cảm, nỗi đau khổ không chỉ của những hoàn cảnh – nỗi niềm và sự khát khao – khiến trái tim cô không nghĩ gì khác, những câu nói đầy xúc động của cô “giờ chúng ta cưới nhau rồi” … cũng vậy! sao mà mặn quá, sâu quá. , “lá lành đùm lá rách” được kim uni truyền tải qua những trang viết xúc động này.

Việc có vợ vừa là niềm vui vừa là nỗi lo của bà cụ. có bậc cha mẹ nào không vui và hạnh phúc khi con cái mình đã đủ lông đủ cánh trải qua tuổi thiếu niên, nay đã trưởng thành, có vợ, có chồng…. Tôi vẫn lo lắng với hoàn cảnh hiện tại, từ trước đến giờ chỉ có hai mẹ con, cái đói kinh khủng vốn đã khó ăn nay thêm một miệng ăn càng khó hơn. Tuy nhiên, niềm vui còn lại là hầu hết đều “sáng ra”, “bà già toàn nói chuyện vui, chuyện tương lai”, cố giấu lo lắng để con dâu vui. tuy nhiên cô vẫn “mắc nghẹn”. cô vẫn tin tưởng vào những đứa con của mình, vào một tương lai tốt đẹp hơn. một câu nói đầy tự tin của một ông già “các bạn đang tự nhủ rằng nếu may mắn thì sẽ khá lên … chẳng ai giàu cả, bạn chưa từng gặp khó khăn trong ba thế hệ.” kết quả là một niềm tin khó, hoàn toàn khách quan và có cơ sở rằng bạn được định sẵn để được hạnh phúc và vui vẻ. nếu nói rằng thành phố Hồ Chí Minh là một ngày nắng đẹp thì cũng chẳng khác gì: trời tạnh mưa thì nắng tắt, hết khổ thì sống vui. vì vậy, hình ảnh ngọn cờ đỏ phe phẩy cùng bọn cướp kho thóc ở cuối truyện cũng hiện lên trong tâm trí, mở ra số phận của một nhân vật, một chân trời mới cho công cuộc cách mạng với những chiến công, lợi nhuận vang dội như cách mạng tháng Tám, dien bien phu sau.

Với cách tổ chức câu chuyện độc đáo, xây dựng nhân vật có diễn biến tâm lý, Kim Uni đã thành công đáng kể với truyện ngắn Vợ nhặt. có lẽ với nhân vật, tình tiết truyện xuyên suốt số phận nhân vật là khởi đầu cho ý thức đấu tranh và minh hoạ cách mạng. Dù chỉ qua một vài câu về “cờ đỏ”, “việt minh”, kim lan đã thành công và không để cho số phận nhân vật của mình đen tối, bế tắc như con gà trống: anh hòa như chí phèo, tứ cố vô thân… trước.

nói tóm lại, đồng cảm với kim lan, thương xót và thương cảm cho người vợ của mình, hãy cùng hát theo bài hát đã là truyền thống ngàn đời của dân tộc Việt Nam:

không có gì đen hơn trên thế giới

giá trị hiện thực và nhân văn trong việc nhặt vợ – mẫu 5

Vợ Nhặt là một trong những truyện ngắn hay nhất trong văn học Việt Nam thời hậu 1945, truyện được in trong Tuyển tập Con chó xấu xí năm 1962. Nguyên văn của một làng quê Việt Nam do Kim Lân viết. được nuôi dưỡng bằng cả trái tim và tình cảm của một người con gái xa quê. truyện được xây dựng với nhiều tình huống gây ấn tượng mạnh cho người đọc. Điều nổi bật trong tác phẩm là tính hiện thực và giá trị nhân đạo.

Lịch sử đã phản ánh những khía cạnh cơ bản của hiện thực xã hội Việt Nam những ngày trước cách mạng tháng 8 năm 1945. Chỉ qua tình huống “nhặt vợ cho con buôn”, lịch sử đã tái hiện lại hình ảnh nạn nhân thê thảm. nạn đói của nhân dân việt nam “từ quang tri đến tonkin, hai triệu người đói”. ở đây, mở đầu câu chuyện là cảnh “khi nạn đói ập đến làng này. Các gia đình nam định thái bình đội nón lá, ôm nhau như những bóng ma, giăng đầy lều chợ. người chết như lá rụng. không Mỗi buổi sáng, khi người dân thị trấn đi chợ hoặc đi làm đồng, họ không thấy ba bốn xác chết nằm bên vệ đường, không khí tràn ngập mùi hôi thối ẩm ướt và mùi hôi thối của xác chết. .. dưới gốc cây đa … những người chết đói lặng lẽ bước đi như những bóng ma. quạ … cứ nghiêm mặt la lối. “

qua đây, bạn đọc cũng có thể hình dung ra bộ mặt thật của bọn phát xít, bọn định cư và tay sai của chúng. điều này được tóm gọn trong lời khai của một bà già phẫn nộ “họ đẩy thuế”. Dù thế nào thì nó cũng bắt đay, hoặc nó bắt bạn phải nộp thuế. Tôi không chắc mình có thể vượt qua vùng đất này!… ”.

Tác phẩm còn phản ánh một thực tế cơ bản khác. đó là tấm lòng của nhân dân đối với cách mạng và sự vận động của cuộc sống hướng tới tương lai. giữa tiếng trống khai thuế, hình ảnh “dân nghèo đổ ầm ầm bên con đê”. có một lá cờ đỏ lớn trước mặt tôi “, xuất hiện trong suy nghĩ của đám đông. Báo trước một bình minh mới của cuộc cách mạng sẽ đến.

Bên cạnh nội dung hiện thực rộng lớn còn có giá trị nhân đạo sâu sắc. Thông qua tình huống độc đáo của truyện, thông qua tâm lý và số phận của các nhân vật, vở kịch Không cần dao lớn càng tố cáo sâu sắc hơn tội ác khủng khiếp của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra nạn đói thảm khốc làm chết người của hai triệu người. chết đói. bóng đen của cái chết bao trùm lên tất cả, đè nặng lên số phận của từng người dân, từng người dân. trong bối cảnh bi đát ấy, giá trị con người thật rẻ mạt. Nếu như trong bài thơ tiễn biệt người yêu, cô gái Thái bị ép lấy chồng đau đớn than thở: “tưởng thân mình chỉ bằng thân con bọ ngựa”, thì ở đây người phụ nữ “bốc phét” chỉ vài bát đũa. bánh ngọt, một bữa ăn đầy đủ và hai cái thì là dầu. nạn đói đã đẩy người ta coi lương thực là tất cả. ngay cả câu chuyện tỏ tình vốn thường mang màu sắc yêu đương, e ấp, duyên dáng nay chỉ còn là câu chuyện lăn lộn trong miếng ăn. vì đói và khát, nhưng cô không còn giữ được vẻ e ấp thường thấy của người phụ nữ Việt Nam. chỉ vài bát bánh đúc và một lời nói “ngẫu hứng” của người đàn ông lạ mặt mà người phụ nữ “ton-sur-ton” kia chạy theo về làm vợ của người nhặt được. ý thức nhân đạo không chỉ toát lên từ sự đồng cảm với thân phận đau khổ của người dân Việt Nam mà còn từ sự tố cáo đó.

câu chuyện của người vợ nhặt cũng cho chúng ta thấy rằng nhân dân lao động vốn có sức khỏe dẻo dai, luôn hướng về ánh sáng với niềm tin bất diệt. Dù hoàn cảnh nguy nan, bi đát, vô vọng đến đâu, dù cận kề cái chết, anh vẫn khao khát hạnh phúc, mái ấm gia đình, vẫn hướng về cuộc sống và hy vọng vào một tương lai tươi sáng. như tác giả đã từng nói: “giữa cái nghèo cùng cực, trong bất cứ hoàn cảnh khốn khó nào, người nông dân ngụ cư vẫn khao khát vươn lên trên cái chết, sự hoang vắng nhưng vui tươi nhưng đầy hy vọng.” đời “. ấy vậy mà vợ chồng vẫn nên duyên vợ chồng giữa cảnh xác đói. Dù hạnh phúc nhỏ nhoi mong manh của đôi vợ chồng bị cái đói cái chết bủa vây nhưng” cuộc sống không bao giờ chán “, nó vẫn tiếp tục là vĩnh cửu, nó vẫn sinh sôi nảy nở từ nấm mồ mùi tử khí., hạnh phúc, tình yêu, vẫn như ngọn gió xuân thổi qua, khuấy động cuộc sống. trong phút chốc, anh như quên hết cảnh đen tối trước mắt, những ngày tháng đầy đe dọa đang ập đến lúc này. lúc này trong lòng anh chỉ có cảm xúc với người phụ nữ đó thôi. Một điều gì đó rất lạ … anh ôm em vào lòng, vuốt ve khắp da thịt, sáng thức dậy thấy nhà đã thay đồ, anh thấy choáng váng. rằng từ đây bà phải có trách nhiệm hơn với những người thân yêu và cuộc sống của chính mình, ở bà cụ còn có những biểu hiện xúc động hơn. mẹ nhanh lên, “khuôn mặt u ám của anh ấy đột nhiên sáng lên.”

qua câu chuyện Người vợ nhặt, Kim lân còn cho chúng ta thấy rằng trong hoạn nạn, mọi người càng lao động, yêu thương nhau hơn, dù trong hoàn cảnh khốn khó, khốn khó vẫn giữ được phẩm chất cao đẹp “ăn cơm, manh áo”. “. “, xé cho thơm”. cuộc sống vất vả đầy rẫy, buộc họ phải sống kiếp súc vật, nhưng không thể dập tắt được phần nhân văn, rất con người trong trái tim người mẹ tội nghiệp. cha mẹ và con cái đã tìm thấy niềm vui trong sự tin tưởng, đùm bọc lẫn nhau mà sống. Tình cảm vợ chồng, tình mẹ con sẽ là động lực giúp họ vượt qua cơn hoạn nạn khủng khiếp này.

vì vậy, “những con người đã vượt qua mặc cảm đói nghèo để vươn lên khẳng định cuộc sống, nhất định sẽ đi theo tiếng gọi của Việt minh để làm cuộc cách mạng. vì “đảng ta … hồn người”. Chọn hoàn cảnh mà người vợ bắt mình phải gánh chịu vì nạn đói khủng khiếp, Kim Lân “không miêu tả sự mất giá, xa lánh của con người mà ngược lại, ông khẳng định khát vọng sinh tồn và phẩm giá của mình. tình yêu cuộc sống của những con người đang cận kề cái chết đã trở thành nguồn sáng, nguồn nhiệt sưởi ấm lòng người, thôi thúc họ ra đi tự cứu lấy mạng sống của mình. và cách mạng, đảng đã mở rộng vòng tay nhân ái để cứu họ đúng lúc:

<3

Xem thêm: Top 8 bài cảm nhận về nhân vật anh thanh niên siêu hay – HoaTieu.vn

(có thể)

giá trị hiện thực và nhân văn trong việc nhặt vợ – mẫu 6

Vợ nhặt nằm trong tuyển tập Những con chó xấu xí, xuất bản năm 1945. Đây là tác phẩm hay nhất trong sự nghiệp của ông, đồng thời cũng là một trong những tác phẩm tiêu biểu viết về đề tài người nông dân và thể hiện đầy đủ quan điểm của Tác giả. của tầm nhìn. tác phẩm thấm đẫm giá trị hiện thực và nhân đạo.

trước hết, giá trị hiện thực của tác phẩm được thể hiện qua việc Kim uni đã tái hiện thành công nạn đói khủng khiếp năm 1945. trong nạn đói năm 1945, hầu hết đồng bào bị đẩy vào chỗ chết. kim uni đã tập trung toàn bộ ngòi bút của mình vào việc tạo ra bối cảnh và bầu không khí cho nạn đói đó. trong văn chương của ông, cái đói và cái chết đã xuất hiện và nổi bật lên một cách mạnh mẽ, tạo nên những ám ảnh kinh hoàng. ấn tượng về cái chết đói được tạo ra bởi nhiều yếu tố, nhưng ấn tượng nhất là thị giác, khứu giác và thính giác. trong lĩnh vực thị giác, ông đã hai lần sử dụng những hình ảnh đáng lo ngại: bên cạnh người chết như rạ, người sống bơi lội như ma. ở đây cái đói đã trở thành nỗi ám ảnh thường trực, giữa sự sống và cái chết có một ranh giới rất mong manh. cái đói đã vắt kiệt sức sống của con người để hiển hiện dưới hình thức những hồn ma lang thang. Ở khứu giác, không chỉ thấy cái chết đói trong văn Kim Lân mà còn ngửi thấy, đó là mùi xác người, mùi khét của những ngôi nhà cháy. và thính giác cũng là những ấn tượng kinh khủng. tiếng bầy quạ cất tiếng gáy, là tiếng khóc thê lương của những gia đình có người chết.

Không chỉ dừng lại ở đó, giá trị thực còn thể hiện ở tình trạng kinh tế của những người nông dân nghèo. Người đàn bà đói khát, thân hình gầy gò, mắt trũng sâu, vì đói, vì thức ăn, bà đồng ý loại bỏ ruột già một cách nhanh chóng. chính cái đói đã khiến người phụ nữ mất đi danh dự, sự nhút nhát vốn có của một người con gái, nhưng lại trở thành kẻ mềm yếu, sẵn sàng đánh mất lòng tự trọng vì miếng ăn của mình. Chỉ với vài bát đường mật và một lời nói bâng quơ, anh đã chạy đến nhìn rồi tủm tỉm cười, mất đi vẻ e thẹn, thân mật và đồng ý làm vợ khi chưa biết tính cách, con người như ruột rà. trong hoàn cảnh bị khủng bố bởi cái đói và cái chết, cô sẵn sàng bám vào mọi thứ để đảm bảo cuộc sống của mình. Những chi tiết mà Kim Uni miêu tả cho thấy Vợ Nhặt Là một người nông dân khốn khổ, bị đẩy đến bước đường cùng nên nhân cách và lòng tự trọng đã bị tha hóa.

Lễ cưới của mỗi người là nghi thức trọng đại nhất trong đời, nhưng đám cưới của chàng trai họ Trương lại được diễn ra rất thiếu chỉn chu và thương tâm. bữa cơm đầu tiên của cô dâu mới là một nồi cháo cám đắng mà cả đám ăn không hết một lời.

nhưng ngoài những điểm xám của hiện thực, chúng ta còn thấy tác phẩm phản ánh giá trị nhân đạo sâu sắc. trong bóng tối, khi cái đói ám ảnh mọi người, dường như mọi người chỉ quan tâm đến sự sống chết của bản thân, những người nông dân Việt Nam vẫn sẵn sàng dang tay cứu giúp những người có số phận bất hạnh hơn mình. thể hiện rõ nét truyền thống yêu thương, đùm bọc của dân tộc ta “lá lành đùm lá rách”.

Tấm lòng nhân đạo của nhà văn được thể hiện trước hết ở lòng bao dung, tình mẹ con đối với vợ. Tuy có ngoại hình xấu xí nhưng anh lại có trái tim nhân hậu, yêu thương mọi người. Dù chỉ làm công việc tạm bợ, không có đất nhưng bà sẵn sàng mua thức ăn cho một người phụ nữ không quen biết. anh cảm thấy thương cảm cho người phụ nữ khi nhìn thấy hình dáng hoàn toàn tiều tụy của cô. và hơn hết, anh cũng đồng ý đón người phụ nữ về nhà làm vợ, mặc dù lúc đó anh có chút lo lắng. Cuộc hôn nhân của Trang không phải ngẫu nhiên mà là một bước đi hợp lý. Lần đầu tiên họ nhìn thấy nhau, lần đầu tiên họ nhận được sự chú ý, đó là nụ cười của một cô gái. ở lần thứ hai, sự than thở khi người phụ nữ khiêu gợi trước đó đã biến mất, thay vào đó là một người đàn ông quần áo rách như tổ, hoàn toàn mỏng manh. Sự thay đổi đột ngột đó đã khơi dậy lòng thương cảm, với bản tính lương thiện và sự đồng cảm của những người cùng cảnh ngộ, anh nhanh chóng quyết định đưa người phụ nữ đó về nhà làm vợ. Quyết định nhanh chóng đến bất ngờ đó vừa thể hiện niềm khao khát hạnh phúc, vừa thể hiện sự quan tâm, nghĩa cử cao đẹp của cô dành cho người phụ nữ đau khổ, bất hạnh hơn mình.

hôn nhân là bước ngoặt lớn của cuộc đời anh, chỉ với những cử chỉ rất đơn giản nhưng cũng đủ thể hiện sự trân trọng của anh đối với người vợ mà mình đã nhặt được. Anh cho cô ăn uống đầy đủ, mua một cái thúng nhỏ, sáng mai mua một ít dầu để đốt. Hành động mua hai xu dầu đó cũng thắp sáng một tương lai, một hy vọng mới cho hai vợ chồng. Đặc biệt, buổi sáng sau khi tôi kết hôn, đại tràng đã thay đổi hoàn toàn. cảm thấy trong người lâng lâng một niềm vui khó tả, khi lần đầu tiên được sống và cảm nhận được hạnh phúc gia đình. và hạnh phúc ấy đã làm thay đổi nhận thức của đàn tràng, thức tỉnh ý thức trách nhiệm đối với gia đình. nhận thức được vai trò cơ bản của mình, hãy cùng vợ và mẹ xây dựng cuộc sống mới.

Về phần mẹ cô, có một cô con dâu trong hoàn cảnh khó khăn này khiến bà rất ngạc nhiên, nhưng sau một lúc bất ngờ, bà đã hiểu ra tất cả. bằng tình thương con, sự đồng cảm với người vợ nhặt bất hạnh, ông hiểu rằng người ta chỉ lấy nhau khi bữa cơm ngon chứ không ai lấy vợ lúc đói. nhưng cùng với tình yêu thương con, bà tự trách mình, tình mẫu tử mà không thể gánh được hạnh phúc cho con cái. Anh yêu em, quan tâm em bao nhiêu thì anh cũng thấy tiếc cho thân phận của người phụ nữ đó. Bà không nhìn cô con dâu mới bằng ánh mắt gay gắt, chỉ trích mà bằng ánh mắt đầy cảm thông, bao dung: “Người ta có khó, có đói thì chỉ có mình mới lấy được con. chỉ con mình mới có vợ “. Như vậy, bà lão không chỉ là hiện thân của tình mẫu tử cao cả, thiêng liêng mà còn là hiện thân của tình người nồng hậu, bao dung, bà đã dang rộng vòng tay nhân ái để nâng đỡ, đùm bọc những thân phận khốn khó, tuy của mình. cuộc sống đầy khó khăn.

Không dừng lại ở đó, giá trị nhân đạo của tác phẩm còn được nhìn ở góc độ Vợ nhặt. người phụ nữ này bị cái đói ám ảnh đến tận cùng, nhưng với khát vọng sống, cô đã cố gắng bám trụ đến cùng, dù phải chuyển sang thân phận của một người vợ nhặt. ý chí sống ấy thể hiện một trái tim khỏe mạnh, một ý chí sống kiên cường, bền bỉ ở người phụ nữ này. Như vậy, qua ba nhân vật người mẹ, người vợ nhặt được con kỳ lân vàng đã khẳng định lại lối sống nhân ái, tình cảm, vị tha của nhân dân ta. Không chỉ vậy, ở họ còn có một sức sống mãnh liệt, sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, nghèo khó.

Cuối cùng, giá trị nhân đạo của tác phẩm được thể hiện ở cuối bài với hình ảnh lá cờ đỏ phất phơ trong lời ăn năn của nhân vật. chắc chắn với tinh thần khỏe mạnh, yêu đời, vợ sẽ tham gia hoạt động cách mạng. hình ảnh lá cờ đó như một gợi ý về tương lai tươi sáng ở phía trước.

Với nghệ thuật thể hiện tuyệt vời, Kim Uni đã vẽ nên một bức tranh hiện thực và tàn khốc về nạn đói năm 1945, khi mạng sống của con người bị rẻ rúng một cách khủng khiếp. nhưng đằng sau bức tranh hiện thực đen tối ấy là ánh sáng của tình người, tình thương yêu, đùm bọc, chở che lẫn nhau giữa những con người khốn khổ. sự đan xen giữa hai giá trị hiện thực và nhân văn đã tạo nên thành công của tác phẩm.

giá trị hiện thực và nhân văn trong việc nhặt vợ – mẫu 7

Trong các tác phẩm văn học Việt Nam, ngoài nội dung sâu sắc mà tác giả truyền tải, những tác phẩm đó còn thể hiện giá trị hiện thực và tư tưởng của tác giả. và trong tác phẩm “Vợ nhặt” cũng vậy, ngoài việc tái hiện hình ảnh ngày đói mà con người hiện lên một cách bi thảm, con kỳ lân bằng kim loại còn truyền cho hình ảnh ấy nhiều giá trị hiện thực và nhân đạo.

Trước hết, truyện “vợ nhặt” có giá trị hiện thực sâu sắc. tác phẩm phản ánh nạn đói khủng khiếp năm 1945. đó là một trong những thời khắc đen tối nhất của đất nước ta. Khung cảnh đói kém buồn bã, ảm đạm được Kim Uni miêu tả một cách chi tiết và sống động. “Những gia đình từ vùng Nam Định… người chết như rạ”. Chỉ bằng vài câu ngắn gọn, Kim lân cho thấy ranh giới giữa sự sống và cái chết rất mong manh. người sống chết, người chết như lá chết. hình ảnh ngày đói dường như đã hằn sâu vào da thịt người đọc bởi nó quá bi thương và khủng khiếp. Kim uni không né tránh sự thật mà nhìn thẳng vào vấn đề để lột tả những nỗi niềm này.

đồng thời, truyện “nhặt vợ” cho ta thấy thân phận rẻ rúng của người đàn ông cùng với số phận đáng buồn của người nông dân trong hoàn cảnh đó. điều này được thể hiện rõ nét nhất qua nhân vật người vợ nhặt. Cái đói, cái nghèo đã xô đẩy nàng đến mức chỉ sau hai lần chạm mặt với Thị Đường, nàng lại trở thành một người vợ với mâm cỗ bày 4 bát bánh bèo và một trò cười. chỉ vì miếng ăn, cái đói và cái nghèo, chúng xô đẩy vận mệnh của một con người. Hai người sau đó nên duyên vợ chồng mà Kim Lân gọi là “nhặt vợ” như nhặt những thứ vô bổ ngoài đường.

Ngoài những giá trị hiện thực sâu sắc, nhà văn Kim Lân còn gửi gắm tấm lòng nhân đạo nồng nàn trong những trang văn của mình. từng lời văn thể hiện của nhà văn đều thấm đẫm niềm thương cảm của nhà văn đối với số phận bi thảm của con người. mỗi nhân vật mà tác giả xây dựng đều thể hiện sự xót thương, đồng cảm với những kiếp người trong nạn đói ấy. Có rất nhiều dịp mà người đọc có thể cảm nhận được tác giả hiện thân và chính nhân vật chia sẻ, đồng cảm với cuộc sống của họ. có những cụm từ mà khi đọc tác giả như xúc động vì xúc động. Chẳng hạn, miêu tả tâm trạng của các thành viên trong bữa cơm ngày đói, Kim Lân miêu tả: “Một nỗi buồn len lỏi trong tâm trí mỗi người”.

Ngoài ra, nhà văn còn phát hiện, trân trọng và ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn con người trong nạn đói năm 45. Dù đói nghèo bị khủng bố khốc liệt nhưng ở họ vẫn tỏa sáng những phẩm chất của con người với vẻ đẹp thấm thía. ở bà lão có tình thương con sâu nặng, lòng nhân hậu và đức hi sinh cao cả. nhân vật để lại cho người đọc cái nhìn giản dị, thân thiện, chân thật. còn ở người phụ nữ “nhặt vợ” ấy là sự dũng cảm, thấu hiểu và ngọt ngào. Đặc biệt, những người dân trong làng là những người hết lòng yêu làng, quan tâm, động viên cộng đồng. để có thể thấy rằng trong bức tranh đen tối của ngày đói khát ấy ánh sáng của tình người vẫn tỏa sáng. chấp nhận trong hoàn cảnh “một sống, hai chết” ấy, con người ta vẫn không đầu hàng số phận.

kim uni cũng đề cao và tôn trọng khát vọng sống và hạnh phúc của người nông dân. khát vọng sống là khát vọng của con người. kim lân đã phát hiện và khẳng định trong tính cách của thị. cô cố gắng thoát khỏi sự truy đuổi của tử thần. Việc nối dõi tông đường làm vợ trong hoàn cảnh đó không hẳn là đáng khinh, nhưng đó là khát vọng sống chính đáng của con người. đồng thời qua tác phẩm, nhà văn cũng lên án mạnh mẽ bọn thực dân, phát xít. chính thực dân Pháp và phát xít Nhật đã đẩy nhân dân lao động chúng ta vào cảnh đói khổ.

giá trị hiện thực và nhân văn trong việc nhặt vợ – mẫu 8

anh nhặt được vợ của tiền nhân là một truyện dài Sống ở xóm trọ mà tác giả hoàn thành từ rất lâu sau cách mạng tháng Tám do tờ báo văn nghệ đăng tải. Nhặt Vợ là một trong những tác phẩm đặc sắc của Kim Lân viết về nông thôn và con người nông thôn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Một trong những giá trị cơ bản làm nên thành công của tác phẩm là giá trị hiện thực, giá trị nhân văn của các công việc.

Vở kịch được đặt trong bối cảnh nông thôn Việt Nam vào cái năm mà các cụ thường gọi là năm đói kém – tức là nạn đói khủng khiếp năm 1945 – đã gây ra cái chết của hơn hai triệu đồng bào ta. tri đến phương bắc chết đói. có thể nói đến bây giờ khi nghĩ lại chúng ta không khỏi rùng mình.

câu chuyện bắt đầu bằng cảnh “tối vì đói (…) không khí nồng nặc mùi hôi thối của rác thải và mùi xác người” ở khu dân cư khi cái đói bắt đầu lấn át: lũ trẻ con nhà nghèo ”ngồi. ủ rũ dưới vách không nhúc nhích “, người sống thì” xanh xám “đi lại uể oải, âm thầm như bóng ma dưới gốc cây gạo, còn người chết thì vô số” không đêm “mỗi sáng đi chợ, ra đồng. mà không thấy ba bốn cái xác nằm bên vệ đường ”, nhà thì“ canh, tối, nhà không có ánh sáng ”.

thật là một khung cảnh u ám, u ám, tăm tối, ngột ngạt. nét đặc sắc về nghệ thuật của nhà văn ở đây là không một dòng nào tố cáo trực tiếp tội ác của bọn thực dân, phát xít (chúng bắt nhân dân ta nhổ lúa, trồng đay) nhưng tội ác man rợ của chúng vẫn hiện hữu trên từng trang viết. .

Trong hoàn cảnh đó, tính mạng của nhân dân lao động luôn bị canh giữ, bị đe dọa bởi cái chết và có lẽ khó ai có thể thoát khỏi cái chết. cuộc sống của họ bây giờ rất rẻ, người ta có thể “nhặt” vợ như nhặt một thứ gì đó ngoài đường, người ta có thể bỏ qua nhân phẩm của mình để lấy một cái gì đó ăn.

Qua tình huống người đàn ông “nhặt” vợ, Kim Lân đã phản ánh rõ nét thực trạng xã hội nước ta những năm trước cách mạng tháng Tám năm 1945, đồng thời cũng phản ánh chân thực thân phận người lao động xã hội xưa. Chỉ cần hai công việc vặt vãnh, bốn đĩa bánh, một bữa cơm no ngoài chợ là có thể lấy được vợ. còn “thị” vì đói, vì thức ăn mà “thị” xoắn xuýt, sẵn sàng đánh đổi phẩm giá của mình để được ăn và chấp nhận về nhà chỉ vì miếng ăn.

Xem Thêm : KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT (1) | Trần Đình Sử

Đáng chú ý là hình ảnh bữa cơm sáng đầu tiên trong nhà dài, bữa cơm ra mắt nàng dâu mới “giữa nhà mẹ đẻ nát có mớ rau chuối rừng và đĩa muối cháo lòng” mà mỗi người thôi. có hai thăn, và món “tráng miệng” là một nồi cháo “cháo cám) với vị chua nơi cuống họng.

Đó là sự đồng cảm, xót thương của nhà văn trước cuộc sống tăm tối của nhân dân lao động trong nạn đói, qua đó, ông tố cáo tội ác man rợ của thực dân phát xít đối với nhân dân ta.

người vợ được chọn thể hiện bản chất tốt đẹp của người lao động dù nghèo khó, dù trong hoàn cảnh khốn khó nào, “người nông dân ngụ cư vẫn khao khát vươn lên trên cái chết, đạm bạc nhưng để vui mà hy vọng.”

Vợ nhặt dù đã hoàn thành từ lâu sau năm đói kém, nhưng cảm giác đói vẫn hiện hữu trên từng trang viết. thông qua tác phẩm, nhà văn đã thể hiện niềm cảm thông sâu sắc đối với cuộc sống của những người lao động nghèo khổ trong nạn đói khủng khiếp mà đất nước ta phải trải qua năm 1945. Người vợ nhặt như thế cũng là một tác phẩm mang giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo. rất sâu.

giá trị hiện thực và nhân văn trong việc nhặt vợ – mẫu 9

Người ta thường nói rằng nghèo đói thường đi đôi với hèn nhát. Nhưng khi đến với truyện “nhặt vợ” của nhà văn Kim Lân, chúng ta sẽ hiểu rằng vẫn còn đó những con người đã sống rất cao thượng, lương thiện giữa cái đói, cái nghèo khủng khiếp. Không chỉ vậy, tác phẩm còn chứa đựng giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo vô cùng sâu sắc mà Kim Uni gửi gắm vào đó. bản thân anh là người sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh nghèo khó nên hơn ai hết anh hiểu rất rõ nỗi khổ của con người. Vì lẽ đó, trong các tác phẩm của ông, người ta thường thấy những người nông dân sống khắc khổ nhưng có tấm lòng trong sáng.

cũng trong tác phẩm “ông đồ nhặt vợ”, kim đơn cũng viết về cuộc sống cơ cực của vùng quê nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Khi đó người sống và kẻ chết dường như lẫn lộn với nhau. . người chết giống như những chiếc lá chết, và người sống lang thang như những bóng ma. kim lan miêu tả rất chi tiết: xác người nằm xiềng xích bên vệ đường, không khí còn nồng nặc mùi rác thải và mùi xác người, xóm chợ buổi chiều hoang tàn, đổ nát, hai Hai bên đường tối om, không một bóng đèn trong nhà. tiếng quạ kêu trên cây gạo ngoài chợ cứ kêu thảm thiết… cảnh đói kém được nhà văn miêu tả thật quá xót xa và thương tâm. Chỉ qua một vài hình ảnh, người đọc cũng có thể hình dung ra trước mắt cảnh tượng người chết đói rải rác ngoài đường trong chợ, người ta thậm chí không nghĩ đến việc chôn cất, ma chay.

Cái đói cũng khiến người ta do dự khi nghĩ đến chuyện kết hôn. khiến cho tràng giang – một người cùng khổ phải “nhặt” vợ. trong bữa ăn đầu tiên của gia đình mới, mà lẽ ra phải là một đĩa cơm, tuy không phong phú, nhưng ít ra cũng có nhiều dưa muối. nhưng không, không có cơm, không có rau, không có đồ chua. bữa ăn duy nhất trong ngày khi đói là một nắm chuối chát và một đĩa muối ăn với cháo. mỗi người chỉ được ăn hai bát là hết sạch. người mẹ phải mang cháo cám cho cả nhà ăn. nồi cháo cám tuy đắng nhưng đã trở thành lương thực hiếm có.

Chính bọn thực dân phong kiến ​​đã nhẫn tâm bắt dân nhổ lúa, trồng đay. bạn có thể ăn rau đay gì. nên thuế cao, thuế nặng làm cho dân chúng khốn khổ. Ăn không hết thì lấy đâu ra tiền đóng thuế. họ thực sự muốn đẩy mọi người vào ngõ cụt, vào chỗ chết.

tất cả những điều trên đã tạo nên giá trị hiện thực sâu sắc cho tác phẩm. tuy nhiên, giữa cuộc sống tẻ nhạt ấy, tình người và khát vọng hạnh phúc vẫn luôn tỏa sáng trong lòng mỗi người. đây chính là giá trị nhân đạo to lớn mà tác phẩm đã mang lại cho người đọc. giữa những xác chết bên đường, giữa những kẻ đói khổ và bần cùng, như ma, ma và tiên, chúng hút nhau. có lẽ sự kiện này có một cái gì đó rất nghịch lý về nó. Ngay cả bản thân Trang cũng chợt nghĩ rằng trong thời đại ngày nay, mình còn không biết có lo được cho bản thân hay không, nhưng mình vẫn vượt qua được. nhưng sau đó, cô vẫn vượt qua mọi lo lắng, thậm chí là sợ hãi, cùng nhau loạng choạng bước đi trước sự ngỡ ngàng của mọi người.

tiếng “nhặt” đầy ngẫu hứng và vui nhộn của vợ tưởng như đùa nhưng lại chính là điểm mấu chốt thể hiện tình yêu cuộc sống của anh, tin rằng ngày mai cuộc sống sẽ tươi sáng hơn, bớt khổ đau. Hơn nữa, sự kiện này còn thể hiện tình yêu thương và sự cảm thông sâu sắc của những con người đang đau khổ. như câu nói, chiếc lá tốt che chở cho chiếc lá bị gãy, một vài chiếc lá gãy sẽ che chở cho nhiều chiếc lá bị gãy. điều duy nhất trong xã hội này, có lẽ ai cũng giằng xé như ai. hai con người cùng chung số phận nghèo đói, khắc khoải dù chưa có dự định gì cho tương lai. trước mắt anh vẫn chỉ là những xác chết ngổn ngang, những con người chết đói. họ đã dũng cảm, hay nói cách khác, quá liều lĩnh. bởi vì trong thời buổi đói nghèo như hiện nay, có cái ăn đã là một điều tuyệt vời. tuy nhiên, họ vẫn kết hôn, kết hôn, một điều tuyệt vời, ngoài sức tưởng tượng của mọi người. nhưng dù sao, điều này cũng khiến khuôn mặt hốc hác và đen tối của họ đột nhiên sáng lên. một thứ gì đó kỳ lạ và sảng khoái đã thổi vào cuộc sống tối tăm và đói khát của anh ấy.

Cảnh “nhặt” vợ đầy hài hước nhưng lại là niềm mong ước hạnh phúc của những con người đang trong tình thế ngàn cân treo sợi tóc. cuộc sống của họ có thể bị cái đói vùi lấp bất cứ lúc nào. nhưng có lẽ, càng gần cái chết, khát vọng sống lại càng lớn. cùng cô ấy và cô ấy bỏ đói và bước qua những xác chết rải rác. vì niềm vui, niềm hy vọng tràn ngập trong họ. Thậm chí, bà cụ đã trải qua nhiều thăng trầm trong cuộc sống, hiểu hơn ai hết những khó khăn phía trước của đôi vợ chồng trẻ nhưng vẫn hạnh phúc. hơn nữa, chính bà là người truyền thêm niềm tin cho các con trong những ngày đầu mới cưới. đặc biệt là bữa ăn đầu tiên với cô dâu. Mặc dù không có gì cầu kỳ ngoài chuối xanh và cháo, nhưng họ đã ăn với nhau bằng tất cả sự đồng cảm và yêu thương nhau. anh ấy nói về những điều vui nhộn: khi có tiền, chúng tôi mua một vài con gà. Tôi nghĩ đầu bếp đó làm chuồng gà rất tiện lợi. Không mất nhiều thời gian để nhìn lại, nhưng có gà cho bạn xem. một ước nguyện thật giản dị, thật giản dị nhưng lại có sức gợi lớn là niềm hy vọng nơi đàn tràng và người vợ. Chưa bao giờ trong ngôi nhà này hai mẹ con lại đầm ấm và hòa thuận đến thế. nấu cháo xong, bà cụ nghĩ ngay đến nồi cháo cám. mẹ hiểu rằng cháo cám có vị đắng, rất khó ăn. nhưng giữa niềm vui ấy, chị lại nhiệt tình thuyết phục con ăn cháo cám như một người mẹ thuyết phục con ăn món gì ngon. cô ấy thốt lên: Tôi có cái này rất tốt. anh ta nhấc nồi cháo cám lên rồi cũng với giọng sảng khoái nói đây là trà. nước chè ở đây, ngon cho cơ. những khoảnh khắc hạnh phúc dù ít nhưng vẫn là niềm hy vọng lớn lao cho cả gia đình. mọi người đều nghĩ rằng họ có trách nhiệm với ngôi nhà này.

nếu ngoài đường, ngoài chợ, người ta nằm la liệt, kiệt quệ vì sắp chết đói, thì ở đây, trong ngôi nhà nhỏ này, dù đói, họ cũng đang thiếu thốn, nhưng có một niềm tin đang phát triển, được nhóm lại. họ tin rằng, ngày mai sẽ tươi sáng hơn, nạn đói sẽ sớm được đẩy lùi. nhất là khi hình ảnh lá cờ đỏ phất phơ, cuộc phá bỏ vựa lúa của quân Nhật nổ ra. Sau bao nhiêu cam chịu, những người nông dân sẽ vùng lên giành độc lập, tự do cho mình. họ sẽ không phải đói và khổ nữa.

Xem thêm: Top 9 cuốn tiểu thuyết văn học hay nhất mọi thời đại nên đọc

Nhân dân càng đau khổ, lòng căm thù đế quốc càng sâu sắc. sớm muộn gì họ cũng sẽ phải trả giá. nó là một quy luật tất yếu: ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh. và đấu tranh cho công lý luôn chiến thắng.

như vậy với giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc của mình, tác phẩm đã gieo vào lòng người đọc niềm xót thương, thương cảm cho những mảnh đời cơ cực. đồng thời động viên họ đoàn kết, đấu tranh để giải phóng cuộc sống. Kim Uni đã rất thành công khi xây dựng câu chuyện hấp dẫn này. cho đến nay, tác phẩm vẫn còn nguyên giá trị.

giá trị hiện thực và nhân văn trong việc nhặt vợ – mẫu 10

Nhặt Vợ là một trong những truyện ngắn đặc sắc của nhà văn Kim Uni được in trong Tuyển tập Con chó xấu xí. cụ tổ của vợ là bộ sử của xóm được viết ngay sau cách mạng tháng Tám. Các bản thảo chưa in bị mất và sau đó được tác giả viết lại.

Bối cảnh của truyện là khung cảnh nông thôn Việt Nam trong thời kỳ áp bức, tăm tối nhất là nạn đói năm Ất dậu 1945. Thực dân Pháp và phát xít Nhật bắt dân cày nhổ lúa và hoa màu. trồng đay, để đáp ứng nhu cầu chiến tranh. nhân dân các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ lâm vào nạn đói khủng khiếp, gần hai triệu người chết đói. Hiện thực đau thương này đã được phản ánh trong nhiều truyện của nguyễn hồng, văn hào, thơ văn cao siêu … nhà văn kim lan cũng góp tiếng nói tố cáo của mình trong tác phẩm Người vợ nhặt.

Đặc sắc nghệ thuật của nhà văn Kim lan trong tác phẩm Vợ người ta là tuy không có dòng nào tố cáo trực tiếp tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật, hình ảnh của chúng không xuất hiện dù chỉ một lần nhưng tội ác của chúng vẫn hiện rõ. . cảnh thị trấn tối tăm nhà súp. xác người vứt bên vệ đường. không khí vẫn nồng nặc mùi ẩm thấp của rác thải và mùi xác chết …

Cuộc sống của người nông dân bị đẩy vào bước đường cùng. cuộc sống của người dân lúc này quá rẻ rúng, người ta “nhặt” vợ như nhặt rơm hay rác bên đường. Qua tình huống lấy vợ Tràng, Kim Lanh không chỉ nói về hiện thực đen tối của xã hội Việt Nam trước cách mạng mà còn thể hiện sự nghèo khổ, tủi nhục của những người nông dân dưới chế độ. trong xã hội cũ (chú ý phân tích cảnh bữa cơm đón mẹ chồng mới trong ngôi nhà dài trong thời đói kém: giữa người mẹ rách rưới, có mớ rau chuối gói ghém và đĩa muối và cháo … và sau đó là một nồi “phô mai” nấu với cám.) ở cuối vở kịch, những nhân vật nghèo khổ này cũng khao khát một sự thay đổi của số phận. chúng ta cũng thấy thấp thoáng linh cảm của tác giả về tương lai, về cách mạng (qua hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng và những đoàn người phá kho thóc của Nhật).

Kim lan viết về cuộc sống của người nông dân Việt Nam trước cách mạng với tâm trạng thương cảm, xót xa và day dứt. nếu không có tình cảm gắn bó thực sự với người nông dân, không trải qua những năm tháng đen tối ấy, hẳn không dễ gì viết được những trang viết xúc động và cảm động như vậy.

giá trị nhân đạo của tác phẩm còn thể hiện ở việc nhà văn đã phát hiện và miêu tả những phẩm chất tốt đẹp của người lao động. dù đã bị đẩy đến bước đường cùng, bên bờ vực của cái chết nhưng những người nông dân vẫn cưu mang, giúp đỡ nhau, chia cơm sẻ áo. Hiện thực cuộc sống đen tối biết bao nhiêu (chú ý phân tích cảnh bà cụ đón nhận cô con dâu mới trong khi gia đình cũng trải qua giai đoạn éo le, không biết sống chết, để làm nổi bật tính nhân văn của họ) .

kim uni cũng thể hiện sự trân trọng đối với khát vọng cuộc sống, hạnh phúc và mái ấm gia đình của người nông dân.

trong hoàn cảnh khó khăn nhưng vợ chồng bà cụ luôn khát khao cuộc sống gia đình đầm ấm, hạnh phúc (cần chú ý những chi tiết miêu tả tâm trạng bà cụ, thái độ của người vợ và người vợ. trong bữa ăn, sau đó nhà cửa và vườn được quét, làm sạch và đặt hàng). một điều gì đó mới mẻ và khác biệt đang đến với mỗi thành viên trong gia đình bà cụ và niềm tin về tương lai được hé lộ cho họ.

Người vợ được chọn là một tác phẩm thành công của nhà văn xứ kim chi. qua tác phẩm này, chúng ta không chỉ nhận ra tài năng của nhà văn, sự hiểu biết sâu sắc, đầy đủ về cuộc sống của người nông dân, mà quan trọng hơn là tấm lòng, tấm lòng son sắt của ông – sự gắn bó thiết tha, sâu nặng của người kim nghĩa đối với người dân lao động nghèo trước cách mạng. .

giá trị hiện thực và nhân văn trong việc nhặt vợ – mẫu 11

Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, Kim Lân là nhà văn có nhiều đóng góp tích cực cho thể loại truyện đề tài nông dân. Tuy ông không viết nhiều trong hai thời kỳ cầm bút nhưng khi nhắc đến ông, người đọc không khỏi nhớ đến những câu chuyện như: thị phi, con vợ lẽ, vợ nhặt….

trong đó có thể nói “nhặt vợ” là một truyện ngắn đặc sắc. Qua câu chuyện tình cờ nhặt được một người phụ nữ về làm vợ trong hoàn cảnh xã hội đói kém khủng khiếp hiện nay, Unicorn Kim đã nêu ra những vấn đề rất sâu sắc. đó là giá trị nhân phẩm và phẩm chất tích cực của những người lao động nghèo trong hoàn cảnh xã hội đen tối.

Trang là một thanh niên có địa vị và địa vị xã hội thấp. Nó có vẻ ngoài xù xì, mộc mạc với đôi mắt nhỏ và hàm rộng. anh lại mồ côi cha, sống với mẹ già trong căn nhà xiêu vẹo, xập xệ. Bản thân anh cũng không có nghề nghiệp ổn định và vững chắc. Hàng ngày anh kéo xe bò đi chở lúa thuê, kiếm cơm nuôi mẹ già. ông là một cư dân, tầng lớp thấp nhất trong hệ thống làng xã Việt Nam trước đây.

với thân phận và địa vị như vậy, theo lẽ thường, cuộc sống cuối cùng sẽ tàn lụi trong cảnh cô đơn và nghèo khó, chẳng mấy khi hạnh phúc lứa đôi. bởi chẳng người phụ nữ nào dại dột mà ràng buộc cả đời mình với một người đàn ông trẻ tuổi như vậy. tuy nhiên, trong diễn biến câu chuyện, có một người vợ, hay nói đúng hơn là một người vợ được chọn một cách tình cờ mà không cần phải tốn kém tiền bạc để tổ chức hôn lễ theo lẽ thường.

Trang mới gặp người phụ nữ đó hai lần. lần đầu tiên nhập tỉnh bằng xe bò đã thấy mấy cô ngồi thụp xuống, hò hét chơi một câu cho đỡ mệt: “Thanh xuân này muốn ăn cơm trắng với! Vào đây đẩy xe với nó ”. Tôi không có ý giễu cợt chị, nhưng không ngờ một chị cong cớn hỏi lại “chị nhà em nói thật hay khoe khoang vậy chị?”. sau đó anh ta chạy đến giúp đẩy xe hàng lên đồi. lần thứ hai, khi anh đang ngồi uống nước ở cổng chợ tỉnh, một người phụ nữ bất ngờ xuất hiện trước mặt và mắng anh là “dại dột”. Lúc đầu, anh không nhận ra cô là ai khi người phụ nữ nhắc anh rằng anh nhớ. và miễn cưỡng mời bà ăn trầu, nhưng bà không chịu ăn trầu mà đòi sang việc khác. tràng giang đã phải mời liều: “muốn ăn gì thì ăn”. nên cô ấy đi xuống nhà và ăn hết bốn bát bánh một lúc mà không nói gì. sau khi ăn cơm xong, anh ta nửa đùa, nửa thật, tán tỉnh nhưng kiểu chơi: “này, đừng về với anh, rồi lên xe lấy hàng rồi về”. nhưng không ngờ người phụ nữ đồng ý. đó là lý do tại sao ruộng và vợ phải thành vợ thành chồng.

có vợ là một điều gì đó bất thường ngoài sức tưởng tượng của mọi người, từ những người hàng xóm đến bà lão và cả bản thân ông tràng. càng bất thường hơn vì sự kiện diễn ra giữa lúc đói kém, đói kém. Nhiều gia đình ở Nam Định, Thái Bình phải bỏ quê kéo nhau lên trời xám xịt như những bóng ma, nằm la liệt khắp các gian chợ, đói như xác lá. không phải sáng nào người dân thị trấn cũng đi chợ làm đồng mà không thấy ba bốn xác người nằm la liệt bên vệ đường. không khí chỉ còn lại mùi hôi thối của rác rưởi và mùi hôi thối của xác chết. nạn đói không ai tha.

giữa lúc nạn đói hoành hành hoành hành, một chàng trai có địa vị, địa vị xã hội thấp kém như vậy vẫn lấy được vợ nhờ mấy bát đũa, sự kiện đó đã nêu bật chủ đề của tác phẩm đó là vấn đề con người. phẩm giá trong một hoàn cảnh xã hội đen tối. chủ đề trước mang ý nghĩa chỉ trích xã hội gay gắt.

“Vợ nhặt” không chỉ được viết với cảm hứng tố cáo, tố cáo thế lực thống trị mà còn toát lên tinh thần nhân đạo sâu sắc thể hiện qua cái nhìn phát hiện và khẳng định phẩm chất tích cực của người lao động trong hoàn cảnh xã hội đen tối. > p>

trước hết, đó là khát vọng hạnh phúc của đôi vợ chồng người lao động nghèo. Đọc câu chuyện ta thấy chuyện đôi trai gái về ở với nhau tưởng chừng như rất đỗi bình thường, nhưng nếu không có sự ẩn chứa khao khát hạnh phúc lứa đôi trong hai con người khốn khổ ấy thì chắc chắn họ đã không làm được. . họ đã là vợ chồng và cuộc gặp gỡ đó có thể dẫn đến cuộc trao đổi giữa một người có thức ăn trong tay và một người đang đói. chính khát vọng hạnh phúc đã khơi dậy những cảm giác mới trong họ.

Trên đường về nhà, khuôn mặt thái dương có gì đó không bình thường, anh cười một mình và đôi mắt sáng lấp lánh. đôi khi quên đi những u tối buồn đời thường ngày, quên đi cái đói đang đe dọa. Anh cảm thấy có gì đó mới mẻ và lạ lẫm, ôm lấy cậu khắp da thịt. còn người phụ nữ dù có vẻ khó chịu trước những cái nhìn tò mò và chế giễu của hàng xóm nhưng vẫn không giấu được vẻ ngại ngùng.

đặc biệt là sau đêm phạm tội. tràng giang và người đàn bà như trở thành hai con người hoàn toàn khác nhau. người phụ nữ có vẻ tử tế và đàng hoàng, và anh cảm thấy một niềm vui sướng dâng trào trong lòng. Anh cũng ý thức rằng mình là chồng, là chủ gia đình phải đảm đương trách nhiệm.

Rõ ràng, đằng sau sự tình cờ ngẫu nhiên vây quanh việc tìm được vợ, chính khát vọng hạnh phúc lứa đôi đã thôi thúc đôi trai gái đến với nhau, thành vợ thành chồng dù cái nghèo cái đói vẫn đè nặng. trên xã hội. sống trong bóng tối hoàn toàn nhưng người lao động vẫn thể hiện tấm lòng vị tha cao cả. điều đó được thể hiện nồng nàn qua thái độ ân cần của bà lão đối với người phụ nữ xa lạ mà bà đã mang về nhà làm vợ.

theo lẽ thường trong hoàn cảnh cái đói đe dọa hàng ngày, hàng giờ, bà lão viện đủ lý do để ngăn cấm và xua đuổi người đàn bà kia. vì nếu anh ta đồng ý cho người phụ nữ về quê sống với con, cũng có nghĩa là mang về nhà thêm một miệng ăn, trước khi tuyệt thực. nhưng bà lão đã không làm như vậy. ngược lại, bà lão thông cảm, hổ thẹn với nàng và vui vẻ nhận nàng làm con dâu: “người ta nếu gặp cảnh nghèo khó bước này thì cũng chỉ lấy chồng làm con”. không đày đọa người khốn khổ mà còn coi bà như ân nhân, lòng nhân ái vị tha của bà cụ thật là cao quý hiếm có, cùng với khát vọng hạnh phúc là khát vọng đổi đời, khát vọng vươn lên kiếm cơm, kiếm sống, tin tưởng vào tương lai của những người dân lao động nghèo. khát vọng chính đáng ấy được gợi lên khéo léo qua thái độ ngạc nhiên của vợ khi nghe bà lão kể về việc nộp thuế. đặc biệt là hình ảnh một đoàn người chuẩn bị phá chuồng và lá cờ đỏ phất phơ hiện lên trong tâm trí khán giả, câu chuyện đã thành công với tình huống truyện độc đáo, tài thể hiện diễn biến tâm lý tinh tế của nhân vật. và việc sử dụng ngôn ngữ lời nói của người lao động. “Wife Picked” được coi là một cú hit của biên kịch Kim Uni.

“Nhặt vợ” là một truyện ngắn đặc sắc của Kim Lan với đề tài về nạn đói năm 1945, nhưng truyện được sáng tác sau cách mạng tháng Tám nên Kim Lan có thời lượng phản ánh vấn đề một cách sâu sắc và đầy tính nghệ thuật. sử dụng. Nhờ đó, Kim Uni đã đưa ra những vấn đề xã hội và con người một cách sâu sắc từ những tình huống truyện độc đáo kết hợp với nghệ thuật trần thuật linh hoạt và bút pháp miêu tả tinh tế.

giá trị hiện thực và nhân văn trong việc nhặt vợ – mẫu 12

Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của việc làm của Vợ người ta gắn bó mật thiết với nhau. hiện thực càng chân thực thì con người càng thể hiện chính mình một cách cụ thể và ngược lại, con người càng có tầm nhìn về hiện thực thì càng tỉnh táo và sắc bén.

Giá trị hiện thực là một trong những giá trị cơ bản của tác phẩm văn học được tạo nên nhờ khả năng phản ánh, khái quát hiện thực đời sống của nhà văn. Để khám phá giá trị hiện thực của tác phẩm, người ta thường đặt và trả lời các câu hỏi: truyện miêu tả đời sống gì? Lịch sử cho chúng ta biết gì về bản chất của xã hội, về cuộc sống của những con người trong xã hội đó? …

Khi đọc câu chuyện Vợ nhặt, chúng ta tìm thấy nhiều chi tiết trực tiếp về nạn đói năm 1945, nạn đói đã cướp đi một phần mười dân số của đất nước chúng tôi. bàn tay của thần chết giờ đây lan tỏa khắp nơi, xuyên thấu mọi ngóc ngách, quật ngã không biết bao nhiêu sinh mạng sau khi xua đuổi họ: “Những gia đình từ miền nam Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lao vào cầm chân nhau. . đến những cái màu xanh xám như những bóng ma, và rải rác khắp lều chợ. người chết như xác lá. không có buổi sáng người dân thị trấn đi chợ, đi làm đồng mà không thấy ba bốn xác người nằm la liệt bên đường ”. Nhà văn không chỉ miêu tả “màu sắc” của nạn đói mà còn đưa ra những chi tiết thể hiện sự nhận biết về nó bằng khứu giác: “không khí vẫn nồng nặc mùi hôi thối và mùi xác người”. “Mùi củi cháy trong những ngôi nhà có người chết bị thổi bay rất chát.” cảm giác về một âm thanh chết chóc đáng sợ: “những con quạ trên cây gạo trong chợ cứ kêu từng hồi”. Với những chi tiết tiêu biểu như trên, tác giả đã giúp chúng ta có được những cảm nhận. một cảm nhận rất cụ thể bằng tất cả các giác quan của mình về thảm họa lớn mà bọn thực dân, phát xít đã gây ra cho dân tộc Việt Nam.

Những người chết đã đi đến kết thúc bi thảm của số phận của họ. còn người sống thì sao? họ cũng dường như đang ở bên bờ vực của cái chết. Xưa kia, lũ trẻ xóm giềng mỗi chiều đợi ông về để bám riết lấy ông “cười ra nước mắt”. Giờ đây, họ không còn bận tâm ra đường chào hỏi Columbus nữa mà thay vào đó là “ngồi ủ rũ trong các con hẻm”. chúng đói đến mức không còn sức để chơi. khi còn nhỏ, khuôn mặt của người lớn rõ ràng là “tối tăm mặt mũi”, lo lắng. một khoảng lặng nặng nề ập xuống cuộc sống của xóm. Kèm theo sự im lặng là những tiếng thở dài. những gì các nhân vật có thể làm tốt hơn trước khi “tôi đã hoàn thành”, trước “thế giới này”? đúng là một thời khốn khó đã tước đi hy vọng sống của con người, biến con người thành thứ rác rưởi vô giá trị, trở thành “của nợ đời người”. cứ nhìn vào tình huống “nhặt vợ” sẽ rõ. ở góc độ đang nói, đây là một chi tiết hiện thực tàn khốc, chua xót như chi tiết về bữa tiệc dâu mới ở cuối truyện. mặc dù “khối lúc đó còn không có cám mà ăn”, nhưng cháo cám vẫn là cháo cám, không phải thức ăn của con người!

nhưng theo một quy luật của cuộc sống, “con” có nghĩa là “biến”. hiện thực của những năm trước cách mạng tháng Tám không chỉ có một màu xám xịt mà còn có những nét tươi sáng. Qua bức thư gửi vợ nhặt sau cách mạng, Kim Lân đã có thể nói về những thay đổi mang tính cách mạng trong đời sống xã hội do Đảng cộng sản mang lại. chi tiết lá cờ đỏ sao vàng tuy chỉ xuất hiện thoáng qua ở phần cuối tác phẩm nhưng lại có tác dụng gợi cho người đọc ấn tượng đầy đủ hơn về bộ mặt xã hội Việt Nam trước Tổng khởi nghĩa năm 1945.

Giá trị nhân đạo là một trong những giá trị cơ bản của một tác phẩm văn học chân chính, được tạo nên từ sự đồng cảm sâu sắc với nỗi đau khổ của con người, biết trân trọng và trân trọng vẻ đẹp của cuộc sống con người, tâm hồn con người và niềm tin vào khả năng của những điều tốt đẹp. .

đọc Vợ nâng chúng ta lên, chúng ta luôn cảm nhận được nhịp đập thổn thức của trái tim người viết đằng sau những tình tiết được trình bày. dưới tán kim kỳ lân chỉ hiện ra một “con đường mỏng manh qua xóm chợ” với dáng vẻ quen thuộc. trong việc miêu tả con người, đặc biệt là trẻ em, nhà văn càng thể hiện tình cảm, tấm lòng nhân ái. và trong đoạn văn nói về tâm trạng của những người hàng xóm khi nhìn thấy bóng người đàn bà lủi thủi sau cánh đồng, ta đọc lên biết bao cảm xúc. bạn phải yêu và hiểu những người nghèo khổ thì mới có thể viết được những dòng nhân hậu và ấm áp như vậy.

Điều cơ bản quyết định giá trị nhân đạo của truyện Chọn vợ liên quan đến cách nhà văn miêu tả những điểm đến cụ thể. đó là cánh đồng, “người đàn bà nhặt” và bà lão.

ngoại trừ việc kim uni không muốn biến nó thành phim hoạt hình. như người thanh cao năm xưa, bằng ánh mắt yêu thương, ông nhận thấy trong đàn tràng có một thứ gì đó quý giá. cô cũng biết yêu người đói, biết chấp nhận mọi người chạy theo mình một cách liều lĩnh, biết mơ ước hạnh phúc dù hoàn cảnh vô cùng éo le, nhận thức chín chắn hơn về cuộc sống khi lập gia đình … cô là nhân vật có thể khiến người đọc tin tưởng. ham muốn bền bỉ. của những người đáng sống.

với truyện “nhặt vợ”, thoạt đầu, kim lân miêu tả những đặc điểm tưởng là rất xấu, tưởng rằng nhà văn đang giễu cợt những đặc điểm “buồn cười” của con người, nhưng thực ra, ông hiểu rất sâu sắc. rằng chính nạn đói do thực dân, phát xít gây ra đã đưa con người đến chỗ phải đánh mất nhân phẩm. Qua nhân vật này, Kim Lân xứng đáng được nhìn nhận là một nhà nhân đạo luôn tin tưởng vào những phẩm chất tốt đẹp và bản năng mạnh mẽ của con người.

Ở nhân vật bà cụ, tư tưởng nhân văn của cây bút được thể hiện ở một khía cạnh mới. Thông qua nhân vật này, cô muốn thể hiện những nét đẹp tiêu biểu của một người mẹ Việt Nam: nhân hậu, yêu thương, quan tâm, chu đáo. trước sự kiện “nhặt được” vợ, trong bà trỗi dậy một nỗi xót xa: xót xa cho số phận của đứa con trai thất lạc, xót xa cho người phụ nữ đã trở thành con dâu của ông. cô cũng cảm thấy có lỗi vì đã không làm tròn bổn phận của một người mẹ. thái độ của bà đối với con dâu có nhiều ngọt ngào, thân mật thể hiện sự thương cảm vô hạn của người từng trải, hiểu người. có lẽ nhờ thái độ đó mà hạnh phúc nhỏ nhoi của lứa đôi có thêm một dư vị dù giữa bóng tối đói khát và chết chóc đang bủa vây. Rõ ràng, hoàn cảnh éo le không thể hủy diệt con người, mà chỉ tôn lên vẻ đẹp của nó.

Vì thấm nhuần tư tưởng nhân đạo cách mạng nên Kim Uni rất chú trọng đến việc khắc họa niềm tin của các nhân vật về một tương lai tươi sáng. Thật tự nhiên khi chúng ta thấy bà cụ tranh luận với con cháu về những sự kiện sắp xảy ra, về cách kiếm tre, đan lát để giữ phòng, mua đôi gà về giống … không gì bằng. Trang Chủ. Đối mặt với cái chết, sự sống vẫn kiên cường vươn lên và khẳng định sức mạnh của mình. sự đổi đời chưa đến nhưng dấu hiệu của nó đã hiện ra với hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng. Tuy câu chuyện kết thúc trong tâm trí không mấy tốt đẹp của khán giả nhưng độc giả tin rằng những điều này

Những ước mơ của ngày hôm nay sẽ trở thành hiện thực vào ngày mai. Cũng như những tác phẩm thấm đẫm tinh thần nhân văn khác, Câu chuyện về người vợ được sưu tầm thực sự mang đến cho người đọc niềm lạc quan yêu đời.

Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của việc làm của Vợ người ta gắn bó mật thiết với nhau. hiện thực càng chân thực thì con người càng thể hiện mình một cách cụ thể và ngược lại, con người càng có tầm nhìn về hiện thực thì càng tỉnh táo và sắc bén.

Nguồn: https://truongxaydunghcm.edu.vn
Danh mục: Văn Học

Related Articles

Back to top button