Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao – Văn mẫu lớp 8 2023

Giá trị hiện thực của tác phẩm lão hạc

phân tích giá trị nhân đạo trong truyện lão Hạc của nam cao – bài 1 học sinh giỏi tỉnh quảng nam

nói đến nam cao là nói đến nhà văn viết truyện ngắn hiện thực hàng đầu của văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX. Qua những tác phẩm viết về người nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng Tám năm 1945, Nam Cao đã thể hiện một cái nhìn nhân đạo, yêu thương, trân trọng đồng bào của mình. tư tưởng đó còn được thể hiện sâu sắc trong truyện lão Hạc.

Giá trị nhân đạo của tác phẩm trước hết được khẳng định qua niềm thương cảm của nhà văn đối với số phận bất hạnh của các nhân vật trong tác phẩm. những con người trong tác phẩm này đều là nạn nhân của xã hội phong kiến ​​nửa thuộc địa. họ phải chiến đấu chống lại nạn đói, các hủ tục phong kiến, v.v. và mỗi người đều có những nỗi khổ riêng. nhân vật chính lão hạc là một người có hoàn cảnh vô cùng bi đát. vợ mất sớm, con trai duy nhất bỏ nghề cao su. ông phải một mình đối mặt với tuổi già, bệnh tật, đói khát và cô đơn. nhà văn hay ông giáo trong vở kịch không thể không đồng cảm với câu nói: “luôn, mấy ngày mới ăn khoai”. con trai lão Hạc cũng là một người đáng thương. Vì nhà nghèo, anh không thể lấy được người con gái mình yêu. nản lòng, anh bỏ phố đi cao su, cái xứ cao su “dễ đi, khó về”, “đi thì non, lúc về thì dễ”. rời xa cha già đã mấy năm, truyện đã khép lại nhưng chưa thấy bóng dáng người đọc, đành ngậm ngùi đặt câu hỏi về số phận… ông giáo, một nhân vật có uy tín trong làng thời bấy giờ cũng vậy. nghèo và nhút nhát, sống một cuộc đời “sống mòn”, “thấm dột, mốc meo”. Có thể nói, “lão hạc” đã thể hiện tấm lòng nhân ái, đồng cảm đối với mọi tầng lớp nhân dân nghèo khổ trong xã hội Việt Nam lúc bấy giờ.

nhưng sống trong nghèo khó mà không bị cái nghèo làm mai một là một nét đáng quý của người nông dân Việt Nam. Và một biểu hiện quan trọng nữa của giá trị nhân đạo trong tác phẩm là nhà văn đã phát hiện ra để trân trọng và ngợi ca phẩm chất rực rỡ trong tâm hồn của những người đồng lao động.

Xem Thêm : Sở Gd& Đt Thừa Thiên Huế Kiểm Tra 1 Tiết Văn Học Trung Đại Lớp 9 (Có Đáp Án)

các nhân vật của “lão hạc” hầu hết là những người có tâm. tình phụ tử trong lão Hạc đặc biệt cảm động. dù rất đau đớn nhưng bà chấp nhận sự cô đơn và ân hận, đồng ý để con trai ra đi theo ý mình. Tôi đi đây, bạn chỉ có con chó vàng làm bạn. lão hạc yêu quý con chó vàng đến mức gọi nó là “cậu vàng”, cho nó ăn cái gì, đút cho nó cái đĩa như con người… nhưng điều đó không hề dễ dàng vì nó là một người yêu động vật. nghe ông già tự tin nói với ông giáo: con chó thuộc về cháu ông. vì vậy sếu yêu cậu vàng chủ yếu vì cậu là kỉ niệm duy nhất còn lại của cậu. anh đã dành tất cả tình yêu thương của người cha cho chú chó đó. khi bán đứa trẻ vàng, “ông lão khóc như một đứa trẻ”, “đôi mắt ông rưng rưng”…. không những vậy, ông còn chấp nhận cái chết để giữ đất cho các con. cơn đói đeo đuổi anh gần như đến tận cùng. vẫn còn một con đường nhỏ nữa là bán mảnh vườn để lấy tiền ăn, nhưng anh nghĩ: đó là mảnh vườn mẹ để lại cho mình … và mẹ đã chọn cái chết chứ không phải bán đất của con trai mình. con hạc vì bực tức nên đi đánh kẹo cao su, nhưng trước khi đi nó vẫn để lại cho cha ba nén bạc. ngay cả cô giáo, dù nhà còn đói nhưng luôn cố gắng giúp đỡ, hỗ trợ người hàng xóm kém may mắn …

Sống trong cái đói, cái nghèo nhưng không bị cái nghèo từ chối, khiêm tốn thay, điều quý giá nhất của người nông dân Việt Nam trước cách mạng là lòng tự tôn cao cả về nhân phẩm. con sếu thà chết đói còn hơn không ăn cả một củ sắn của nhà hàng xóm. Lẽ ra anh ta có thể bán mảnh vườn để có tiền chống đói, nhưng anh ta không làm vậy vì anh ta kiên quyết không ăn thức ăn của bọn trẻ. Bạn cũng có thể chọn con đường là lính chân đánh chó để kiếm thức ăn. và không bao giờ làm. người đó lúc lâm chung còn lo làm phiền hàng xóm nên dành dụm gửi tiền làm ma cho thầy. thấm thía nhất là nỗi xót xa của ông sau cái chết của cậu vàng. anh day dứt vì nghĩ rằng anh đã “lừa một con chó”. lão hạc! ẩn trong dáng người già gầy của bà là một tâm hồn cao cả và đáng sống!

Đồng cảm với số phận của người lao động, nhất là người nông dân Việt Nam trước cách mạng, đồng thời ngợi ca những phẩm chất cao quý của họ là những biểu hiện quan trọng của giá trị nhân đạo trong truyện “lão Hạc”. viết về người nông dân Việt Nam trước cách mạng, giọng nam cao lạnh lùng, lãnh đạm nhưng ẩn sâu bên trong là một tình yêu sâu nặng, mãnh liệt.

phân tích giá trị nhân đạo trong truyện lão Hạc – nhiệm vụ 2

Khi nhắc đến truyện Lão Hạc, một trong những tác phẩm hay nhất của văn học hiện thực Việt Nam giai đoạn 1930-1945, người ta nghĩ ngay đến nhân vật cùng tên, một tấm gương tiêu biểu của người nông dân nước ta trước cách mạng tháng Tám. , nhưng anh lại quên mất một hình tượng rất thành công khác trong truyện: nhân vật “tôi” -cô giáo. Có thể nói, tuy không phải là nhân vật chính, xuất hiện với tư cách là người kể chuyện, chỉ xuất hiện với vài nét vẽ ngắn ngủi qua lời kể của chính mình, nhưng nhân vật ông giáo “tôi” là một hình tượng nghệ thuật mang đặc điểm của con người nam cao, mang nhiều giá trị nghệ thuật., trong đó có giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc.

Xem Thêm : Top 6 bài văn mẫu Thuyết minh về Truyện Kiều của Nguyễn Du lớp 9 chọn lọc – Bình chọn hay

đúng với đánh giá của tran dang truyen, “nam cao là nhà văn lớn nhất của trào lưu văn học hiện thực phê phán 1930-1945” (trong bài viết nam cao – nhà văn hiện thực xuất sắc, tính nhân đạo lớn). ông đến với chủ nghĩa hiện thực phê phán khá muộn, khi có những tác giả lớn trong văn học với nhiều đỉnh cao không dễ gì vượt qua được như nguyễn công hoàn, vu trong, ngoắt ngoéo … nhưng được ông chú ý. quan điểm nghệ thuật, nam cao “biết đi sâu, biết tìm tòi, biết tận dụng những nguồn chưa được khám phá và sáng tạo ra những điều chưa có” (lãnh đạo cuộc sống). Bằng cách riêng của mình, Nam Cao đã tạo nên những tấm gương nghệ thuật bất hủ trong văn xuôi hiện thực Việt Nam. ngày nay, chi phèo, thị ha, bác hao, lão hạc … không còn chỉ là những nhân vật trên trang sách nữa mà đã đi vào cuộc sống, ghi dấu ấn trong đời sống văn học dân tộc.

Trong truyện ngắn Lão Hạc, ngoài nhân vật chính là tấm gương sáng về người nông dân Việt Nam trước năm 1945, thì nhân vật ông giáo tuy chỉ là nhân vật phụ nhưng mang nhiều giá trị hiện thực rõ nét. Đây là nhân vật tiêu biểu của tầng lớp trí thức tiểu tư sản nước ta trước cách mạng, cụ thể là của những người thầy mà tác giả gọi là “những thầy đồ trường tư”. Không được khắc họa đậm nét như ông giáo thứ hai trong tiểu thuyết, nhưng qua một ông giáo “tôi” trong truyện Lão Hạc, chúng ta gặp lại nhiều người thầy khác ở nước ta trước năm 1945. Họ là những người trí thức nghèo, khốn khó, sống bằng đồng lương bèo bọt trong cuộc sống riêng tư. . các trường học. cuộc sống của anh cũng chẳng khá hơn gì một người nông dân, cũng bấp bênh, thiếu thốn và trì trệ. trong truyện, gia đình ông giáo thường xuyên rơi vào cảnh “sống chung đường cùng”, con còn nhỏ, bệnh tật liên miên, người vợ “khổ” đến nỗi “tính tốt” thì “khổ” nhiều. những vấn đề ”lo lắng, buồn phiền, ích kỷ bao trùm” như người viết vội trong cuộc sống phi thường mà nhà văn đưa ra trong buổi sáng, ông giáo “tôi” lão hạc cũng phải “chạy ăn từng bữa đổ mồ hôi hột” (trần tục xương) Đây là cuộc đời của những trí thức tiểu tư sản nói chung dạy học nói riêng ở nước ta trước năm 1945, trong đó việc dạy chữ “tôi” là một điển hình.

Trong hoàn cảnh sống khó khăn, thiếu thốn và khốn khó ấy, những nhân vật trí tuệ của những con người cao đẹp thường rơi vào bi kịch giữa lí tưởng cao đẹp và thực tế khốn cùng trói buộc họ, giữa khát vọng lớn lao và câu chuyện về bao gạo ép. xuống. ông chủ lão hạc là một đại diện tiêu biểu cho bi kịch này của “trường sĩ phu” nước ta trước cách mạng. người thầy “tôi” cũng đã sống qua “thời gian làm việc chăm chỉ, nhiệt huyết và tự tin với những đam mê đẹp đẽ và hy vọng lớn lao”, thời kỳ mà “mỗi khi tôi mở một cuốn sách, trước khi tôi có thời gian để đọc một dòng, tôi cảm thấy một cảm giác bức bách. hiện hữu trong lòng tôi như ánh bình minh, hình bóng tuổi đôi mươi, biết yêu biết ghét. nhưng “một căn bệnh hiểm nghèo đã mang anh trở lại, đưa anh về trần gian để chôn nhau cắt rốn” (sống ), rồi sau bao lần “bôn ba với đất khách quê người”, con ốm, người vợ “khổ cực” đã ngủ yên trong ký ức và không bao giờ được thầy nhắc đến nữa. có thể nói, tuy không được tác giả khắc họa một cách táo bạo như bi kịch của “kẻ vô dụng, kẻ thừa” giằng xé trong tâm hồn của những người đi học, quê hương, cấp ba,… nhưng qua những gì thầy về “cuốn sách được nhiều người yêu thích”, về “một thời lao động nhiều, tâm huyết và tự tin”, về cuộc sống bấp bênh, nghèo khó hiện tại, chúng tôi hiểu rằng nhân vật này cũng có những nỗi niềm khó nói. Trong Sống mòn, Nam Cao đã nêu “Đau đớn thay cho những kiếp người muốn vươn tới đỉnh cao nhưng lại bị chính quần áo của mình ghim chặt xuống đất”. hay như trong cuộc đời phi thường, ông viết: “Còn gì đau đớn hơn cho một người vẫn khao khát làm điều gì đó làm tăng giá trị cuộc sống của mình, nhưng cuối cùng lại chẳng làm được gì, chỉ lo kiếm ăn và kiếm tiền? đủ rồi “. Đó là nỗi đau của những trí thức tiểu tư sản dạy học ở nước ta trước năm 1945, mà tiêu biểu là người thầy thứ hai, người thầy” tôi “.

Ông không chỉ là một “nhà văn hiện thực xuất sắc”, nam cao còn là một “nhà nhân đạo lớn”. và “cái góc, nền tảng vững chắc của chủ nghĩa hiện thực nam tính là chủ nghĩa nhân đạo” (tran dang truyen, tài liệu đã dẫn), bởi hơn ai hết, anh nhận thức rõ giá trị đích thực của “một tác phẩm có giá trị hiện thực” chính là giá trị nhân đạo của nó. trong cuộc sống phi thường, nhà văn viết: “một tác phẩm có giá trị đích thực phải vượt qua mọi biên giới và giới hạn, nó phải là một tác phẩm chung cho toàn thể nhân loại. nó phải chứa đựng một cái gì đó to lớn, mạnh mẽ, cả đau đớn và phấn khích. nó ca ngợi lòng thương xót, bác ái, công lý… nó mang mọi người đến gần nhau hơn ”. trên thực tế, người đàn ông cao đã làm như anh ta tưởng tượng. Giữa ranh giới mong manh giữa chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa tự nhiên, nhà văn không bị chi phối, nghiêng về phía bên kia vì ông luôn đứng vững trên nền tảng của chủ nghĩa nhân đạo. nam cao là “nhà văn của những con người khốn khổ và tủi nhục nhất trong xã hội thực dân – phong kiến”.

viết về mỗi người trong số họ, “bộc lộ tấm lòng của một con người đau khổ và yêu cuộc sống”, bởi vì “con người cao yêu thương những người bị cuộc sống bức hại” (tran dang truyen, tldd). Những tác phẩm “càng thử thách, càng sáng chói” của Huấn Cao, chiếm một vị trí quan trọng trong lịch sử văn học dân tộc, có lẽ chủ yếu bởi giá trị nhân đạo mà chúng chứa đựng.

Nguồn: https://truongxaydunghcm.edu.vn
Danh mục: Văn Học

Related Articles

Back to top button