Cách mạng Công nghiệp 4.0: cơ hội, thách thức, và giải pháp của ngành Văn hóa – Nghệ thuật Việt Nam

Cách mạng công nghiệp lần 4 cơ hội và thách thức

Cách mạng công nghiệp 4.0 (cmcn 4.0) được coi là cuộc cách mạng “chưa có tiền lệ lịch sử”, phát triển với tốc độ thần tốc, đánh dấu bước ngoặt phát triển khoa học và công nghệ của nhân loại, tạo ra những tác động sâu rộng trong phát triển kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa, môi trường và nhiều lĩnh vực trong đời sống của các quốc gia trên thế giới. từ các chính phủ, công ty, tập đoàn xuyên quốc gia và đa quốc gia, đến những người sáng tạo văn hóa, những người thực hành và đông đảo người dân đều ít nhiều bị ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp bởi cmcn 4.0.

Các cảnh trong vở kịch múa ba lê và nhạc kịch Việt Nam Hồ thiên nga – ảnh của thanh hà

đặc biệt là trong đại dịch covid-19, khi nhiều quốc gia đang trong tình trạng đóng cửa và người dân và công nhân dành phần lớn thời gian ở nhà, tầm quan trọng của các dịch vụ trực tuyến trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. gần đây bộ vhttdl đã cho thử nghiệm hình thức sân khấu trực tuyến trên các kênh youtube để phục vụ đời sống tinh thần của mọi người. Bài viết phân tích những cơ hội và thách thức mà cuộc cách mạng 4.0 mang lại cho Việt Nam hiện nay trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật; Đồng thời đề xuất hàng loạt giải pháp nhằm thích ứng và tận dụng xu thế phát triển của cmcn 4.0 trong việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững của người dân Việt Nam. tích hợp.

1. gặp phải 4.0

cmcn 4.0 bắt nguồn từ Đức vào năm 2013, với sự ra đời của khái niệm công nghiệp 4.0 (công nghiệp 4.0) được đưa ra tại hội chợ hannover để giới thiệu các tác phẩm của Đức. Khái niệm này đã được klaus schwab, người sáng lập và chủ tịch điều hành diễn đàn kinh tế thế giới wef, làm rõ hơn so với các cuộc cách mạng công nghiệp trước: “cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên sử dụng nước và hơi nước để cơ giới hóa sản xuất. cuộc cách mạng thứ hai ra đời thông qua việc ứng dụng điện năng vào sản xuất hàng loạt. cuộc cách mạng thứ ba sử dụng điện tử và công nghệ thông tin để tự động hóa sản xuất. kể từ bây giờ, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 xuất hiện từ cuộc cách mạng thứ 3, nó tập hợp các công nghệ lại với nhau, xóa nhòa ranh giới giữa vật lý, kỹ thuật số và sinh học ”(1).

cmcn 4.0 đang diễn ra với tốc độ cấp số nhân do sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật trên nền tảng công nghệ số, tích hợp công nghệ “thông minh” nhằm tối ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất và thay đổi lực lượng sản xuất. sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin và số hóa đã được tận dụng tối đa, tạo ra những bước đột phá chưa từng có trong lịch sử. Nếu điện thoại mất 75 năm để đạt 50 triệu người dùng, radio 38 năm, tivi 13 năm, internet chỉ cần 4 năm để đạt 50 triệu người dùng trên toàn thế giới và facebook chỉ cần 3,5 năm (2).

trên thế giới vẫn còn rất nhiều thảo luận về cmcn 4.0. có người cho rằng đó là cuộc cách mạng của tương lai, nhưng hiện tại những gì chúng ta đang chứng kiến ​​vẫn là một bước phát triển cao của cuộc cách mạng 3.0. Giữa cơn bão tranh luận học thuật, một điều đã được khẳng định, đó là nền tảng của số hóa và công nghệ thông tin, những nét cơ bản của cuộc cách mạng này đã trở thành xu hướng chủ đạo, tạo ra những tác động sâu sắc và thay đổi căn bản trong lĩnh vực VH-TT. nghệ thuật, tạo ra những cơ hội và thách thức lớn, đan xen lẫn nhau cho các quản trị viên, những người chịu trách nhiệm về chính sách văn hóa, cũng như các chuyên gia và những người hoạt động trong lĩnh vực này cũng như công chúng trên toàn thế giới.

2. cơ hội và thách thức

cơ hội

Cơ hội lớn nhất có thể nhận thấy là sự gia tăng đáng kể khả năng tiếp cận của công chúng với văn hóa và nghệ thuật trên thế giới. Mạng internet, điện thoại thông minh và hàng nghìn ứng dụng công nghệ thông tin đã giúp con người có cơ hội tiếp cận với kho tàng tri thức và văn hóa nghệ thuật của nhân dân một cách dễ dàng, nhanh chóng và rộng rãi hơn bao giờ hết. Theo một cuộc điều tra của excelacom inc vào năm 2016, mỗi phút trên thế giới có 38.052 giờ nghe nhạc trên Spotify, 69.444 giờ xem phim trên Netflix, 701.389 lượt truy cập facebook, 2,78 triệu lượt xem video trên youtube, thu nhập 203.596 USD trên mỗi bán hàng trên amazon … (3). ngày nay, khán giả trẻ Việt Nam có thể thưởng thức những album hoặc đĩa đơn của các ca sĩ xuất sắc nhất thế giới phát hành cùng ngày với khán giả Âu Mỹ. Khán giả ở những vùng nông thôn không có rạp chiếu phim vẫn có thể xem những bộ phim nổi tiếng thế giới qua internet chỉ với một chiếc điện thoại thông minh hoặc iPad.

Xem thêm: Thực đơn giảm cân 7 ngày Khoa học, Đơn giản & Hiệu quả

tại Việt Nam, thành công ngoài mong đợi của nguyen ha dong, nhà thiết kế trò chơi flappy bird, đã truyền cảm hứng cho những người trẻ tham gia phong trào đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp. Theo một số nguồn tin, flappy bird đã mang về cho nhà phát triển game trẻ tuổi này khoảng 50.000 usd (hơn 1 tỷ vnd) mỗi ngày tiền quảng cáo. ha dong tiết lộ rằng flappy bird đã được phát hơn 20 tỷ lần trong tháng 2 năm 2014 và được tải xuống hơn 90 triệu lần trên cửa hàng ứng dụng và google play (4).

Các ngành công nghiệp văn hóa và sáng tạo trên nền tảng kỹ thuật số đã phát triển mạnh mẽ và có những đóng góp đáng kể cho nền kinh tế của một số quốc gia và thế giới. Năm 2013, nội dung văn hóa và sáng tạo đã đóng góp 200 tỷ đô la vào doanh thu toàn cầu và đưa doanh số bán thiết bị kỹ thuật số lên 530 tỷ đô la. tài sản văn hóa kỹ thuật số là nguồn doanh thu lớn nhất của nền kinh tế kỹ thuật số, tạo ra gần 66 tỷ đô la vào năm 2013 từ việc bán sách điện tử, nhạc, video, trò chơi và đạt 22 tỷ đô la doanh thu từ quảng cáo trực tuyến, đại lý truyền thông trực tuyến và phát trực tuyến miễn phí. các trang web như youtube. doanh số bán vé điện tử và các sản phẩm kỹ thuật số từ các nhà bán lẻ điện tử đạt 26 tỷ USD. đặc biệt, quảng cáo trực tuyến của các công ty quảng cáo đã lên tới 85 tỷ đô la trong năm 2013 (5). Theo Liên đoàn quốc tế về ngành công nghiệp ghi âm (IFPI), năm 2015 là năm đầu tiên doanh thu của ngành công nghiệp âm nhạc kỹ thuật số vượt quá doanh số của bản ghi âm vật lý.

thách thức

Bên cạnh những cơ hội, công nghệ số, những tính năng cơ bản của cmcn 4.0 cũng mang đến những thách thức lớn. công nghệ kỹ thuật số tái tạo nghệ thuật, mở ra thị trường và phân khúc đối tượng mới, nhân rộng phương thức sản xuất và phân phối, thay đổi thói quen tiêu dùng và văn hóa hưởng thụ của người tiêu dùng, thay đổi mô hình kinh doanh truyền thống. tác động lớn nhất trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật là công nghệ số đã làm biến đổi chuỗi giá trị văn hóa, tạo ra những thay đổi tương tác đa chiều ở mọi khâu sáng tạo, sản xuất, phân phối, tiêu dùng và hưởng thụ. từ mô hình “đường ống” tuần tự các bước của chuỗi sáng tạo, nay dưới tác động của công nghệ số, chuỗi giá trị đã phát triển theo mô hình “mạng”, ở đó ở mỗi giai đoạn mọi người đều tương tác với nhau. Các nền tảng kỹ thuật số đã cho phép các nghệ sĩ sáng tạo nhận được phản hồi tức thì từ công chúng về sản phẩm của họ từ giai đoạn ý tưởng, sau đó sửa đổi và thậm chí khởi chạy phân phối trực tuyến, sau đó tiếp tục giới thiệu các đổi mới và cập nhật trong suốt quá trình sản xuất. Trong mô hình mạng này, dữ liệu là mạch máu của hệ thống văn hóa và là yếu tố then chốt của nền kinh tế sáng tạo. tuy nhiên, rất ít quốc gia trên thế giới hiện có chính sách văn hóa hoặc chiến lược văn hóa kỹ thuật số để ứng phó với thách thức của quá trình chuyển đổi chuỗi giá trị này.

Xem Thêm : Tỉ số biến dòng điện là gì

(theo quy ước báo cáo toàn cầu 2005: định hình lại các chính sách văn hóa, unesco, 2018)

Một mối nguy đã dần xuất hiện, đó là việc tập trung thâu tóm thị trường ở một vài quốc gia lớn và các tập đoàn lớn, có tiềm lực về công nghệ và tiếp tục đầu tư mạnh vào nghiên cứu phát triển để đổi mới. các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam tuy có lợi thế phát triển muộn hơn và sử dụng công nghệ băng rộng di động tiên tiến 3g, 4g … nhưng vẫn còn nhiều tầng lớp về cơ sở hạ tầng, cũng như khuôn khổ chính trị pháp lý để thúc đẩy sự phát triển của hàng hóa và văn hóa. dịch vụ trong môi trường kỹ thuật số.

3. điểm mạnh và điểm yếu của ngành văn hóa nghệ thuật Việt Nam trước cách mạng 4.0

sức mạnh

Sức mạnh lớn nhất của Việt Nam hiện nay trước xu thế cách mạng 4.0 là tầm nhìn xa và sự kiên định của lãnh đạo cấp cao Đảng và Nhà nước Việt Nam trong việc nắm bắt thời cơ, đón đầu xu thế để phát triển đất nước. Phát biểu khai mạc hội thảo – triển lãm quốc tế “Phát triển công nghiệp thông minh – Smart Industry World 2017” ngày 4/12/2017 tại Hà Nội, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh: “CMCN 4.0 là cơ hội hiện thực hóa khát vọng thịnh vượng của dân tộc, chúng ta không thể thất bại và phải chủ động nắm bắt, hãy cùng nhau biến khát vọng thịnh vượng của dân tộc thành những việc làm cụ thể, hành động chú trọng nắm bắt xu hướng công nghệ mới, trang bị đủ năng lực, sẵn sàng tiếp nhận mô hình kinh doanh mới, dũng cảm từ bỏ, cải cách mô hình cũ để đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn của thị trường, tiêu dùng của người dân. “Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 16 / ct-ttg ngày 4/5/2017 về việc tăng cường năng lực tiếp cận hội nghị lần thứ 4, đề ra các giải pháp chiến lược, thúc đẩy sự thay đổi, những bước tiến vững chắc trong i Hạ tầng, nguồn nhân lực ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số, cải thiện môi trường kinh doanh, thúc đẩy hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia … Trên cơ sở này, các bộ ngành Trung ương và địa phương đã vào cuộc mạnh mẽ. hầu hết các dịch vụ công hiện đã chuyển sang trực tuyến, trong đó hơn 30% đã ở mức độ 4. Bộ trưởng Vht đã ban hành kế hoạch thực hiện chỉ thị số. 16 / ct-ttg trong quyết định số. 3888 / qd-bvhttdl ngày 19/10/2017 để các cơ quan, đơn vị trong ngành nhận thức về công nghiệp 4.0, thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ Thủ tướng Chính phủ giao, ứng dụng công nghệ phù hợp, tạo ra sản phẩm, dịch vụ có lợi thế cạnh tranh trong ngành. Ngày 28/11/2017, Bộ Văn hóa và Thể thao đã ban hành Nghị quyết số 4610 / qd-bvhttdl về việc định hướng danh mục sản phẩm chủ lực của ngành vhttdl, xác định một loạt sản phẩm thuộc lĩnh vực điện ảnh, nghệ thuật biểu diễn, văn hóa. di sản và thư viện sẽ tập trung đầu tư vào các ứng dụng công nghệ để phát triển.

Đặc biệt, ngày 27 tháng 9 năm 2019, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành Nghị quyết 52 của Bộ Chính trị về một loạt chủ trương, chính sách tích cực tham gia cuộc cách mạng quần chúng lần thứ tư, thể hiện quyết tâm chính trị cao nhất, đổi mới. tư duy, thống nhất đồng tâm, huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị, tranh thủ tối đa các nguồn lực để sử dụng có hiệu quả kết quả của toàn hệ thống chính trị, cơ hội mà cuộc cách mạng 4.0 mang lại để thúc đẩy quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với việc thực hiện chiến lược tiến công, hiện đại hóa đất nước; phát triển mạnh mẽ nền kinh tế số; phát triển nhanh và bền vững dựa trên nền tảng khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và nguồn nhân lực chất lượng cao; nâng cao chất lượng cuộc sống và phúc lợi của người dân; bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường sinh thái. Nghị quyết là kim chỉ nam giúp nước ta có những bước phát triển vững chắc, chủ động nắm bắt thời cơ, đối phó với thách thức của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư để thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, không để ai bị tụt hậu. chính phủ đã ban hành một kế hoạch hành động của chính phủ để thực hiện nghị quyết 52 của bộ chính trị trong nghị quyết số. 50 / nq-cp ngày 17/4/2020, trong đó phân công rõ trách nhiệm của từng bộ, ngành trong việc hoàn thiện thể chế, xây dựng và phát triển thực chất. cơ sở hạ tầng đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng 4.0, chính sách phát triển nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo quốc gia, phát triển nguồn nhân lực thích ứng, đẩy mạnh chuyển đổi số, chủ động hội nhập quốc tế, phát triển một số ngành công nghiệp ưu tiên, phân công Bộ Văn hóa – Thông tin điều tra, đề xuất các giải pháp chính sách tập trung phát triển các ngành công nghiệp ưu tiên, có sự chuẩn bị cao như: du lịch số lượng; ngành văn hóa kỹ thuật số. chính phủ cũng đã ban hành quyết định số. 749 / Qđ-ttg ngày 03/6/2020 phê duyệt “Chương trình quốc gia chuyển đổi số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, tầm nhìn đến năm 2030, Việt Nam trở thành quốc gia số, ổn định và thịnh vượng. tiên phong trong việc thử nghiệm các công nghệ và mô hình mới; đổi mới căn bản và toàn diện hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ, hoạt động sản xuất và thương mại của các công ty, cách sống và làm việc của người dân, phát triển môi trường số an toàn, nhân văn và toàn diện ở mọi nơi.

Là một quốc gia có truyền thống văn hóa lâu đời với những giá trị di sản văn hóa độc đáo và đa dạng của 54 dân tộc anh em, Việt Nam có thế mạnh để xây dựng và phát triển các sản phẩm văn hóa đặc sắc. . Trong bối cảnh toàn cầu hóa, nơi thế giới đã trở thành một “ngôi làng toàn cầu”, tiêu thụ những món ăn chung được sản xuất hàng loạt, nhu cầu “phân biệt”, tìm kiếm sự khác biệt trở thành một xu hướng. Việt Nam, vì vậy, có thể tận dụng yếu tố “bản sắc” để tạo nên dấu ấn riêng biệt cho thương hiệu quốc gia. Với hơn 20 di sản đã được UNESCO ghi danh, hàng nghìn di tích, lễ hội dân gian và vô số tri thức truyền thống, Việt Nam cần có cách khai thác giá trị kinh tế của di sản văn hóa một cách bền vững và sáng tạo để tạo lợi thế cạnh tranh so với các quốc gia khác. các quốc gia.

Bước đầu, Việt Nam đã hình thành những nền tảng cơ sở hạ tầng nhất định để bắt kịp xu hướng phát triển công nghệ trên thế giới, mở ra cơ hội lớn cho văn hóa số khi tỷ lệ người dùng Internet và thiết bị điện thoại thông minh tại Việt Nam ngày càng tăng. Theo hootsuite và báo cáo kỹ thuật số đeo tay năm 2021, tính đến tháng 1 năm 2021 có 68,72 triệu người dùng internet tại Việt Nam, chiếm 70,3% dân số và số lượng kết nối di động là 154,4 triệu thiết bị, chiếm 157,9%. của dân số (tức là cứ 2 người thì có 3 người sử dụng điện thoại di động). Cùng với quyết tâm của Chính phủ và các chính sách mạnh mẽ nhằm xây dựng “quốc gia khởi nghiệp”, tỷ lệ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo mới tăng gần gấp đôi, từ 1.800 năm 2016 lên hơn 3.000 năm 2017 (6). Thứ hạng của Việt Nam trong bảng xếp hạng hệ sinh thái khởi nghiệp quốc gia tăng 13 bậc lên vị trí thứ 59 vào năm 2020, hướng tới vị trí trung tâm khởi nghiệp hàng đầu Đông Nam Á (7). Hiện nay, trong hệ sinh thái khởi nghiệp của Việt Nam có gần 100 quỹ đầu tư mạo hiểm đang hoạt động, cung cấp nguồn tài chính dồi dào cho các startup. Việt Nam nổi lên là tập đoàn có thương hiệu mạnh như Viettel, lọt vào top 5 thương hiệu viễn thông hiệu quả nhất ASEAN, nằm trong top 100 thương hiệu viễn thông lớn nhất thế giới.

điểm yếu

Xem thêm: Hướng dẫn chi tiết cách tính cân nặng lý tưởng theo chỉ số BMI – Thế Giới Điện Giải

Tuy nhiên, trước xu thế phát triển của cmcn 4.0, các lĩnh vực văn hóa nghệ thuật của Việt Nam gặp nhiều bất lợi. Mặc dù chính phủ coi trọng và mong muốn tận dụng các cơ hội của cmcn 4.0, nhưng vai trò của văn hóa trong việc thúc đẩy sáng tạo và đổi mới vẫn chưa được nhìn nhận đầy đủ trong quá trình này. các chủ trương, chính sách, biện pháp chủ yếu tập trung ưu tiên cho lĩnh vực khoa học, công nghệ, thông tin – truyền thông. vai trò của giáo dục nghệ thuật, không gian văn hóa và sự sáng tạo hầu như không được đề cập.

Có một thực tế là những người hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật ít am hiểu công nghệ, không được trang bị kỹ năng kinh doanh nên việc khai thác hệ giá trị văn hóa truyền thống để hình thành hàng hóa, dịch vụ văn hóa còn hạn chế.

Hơn nữa, số hóa trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật ở Việt Nam trong nhiều năm qua vẫn chưa được nhà nước quan tâm và đầu tư đúng mức. ứng dụng công nghệ tiên tiến trong hoạt động của các thiết chế văn hóa công cộng như bảo tàng, thư viện, nhà hát, v.v. còn chậm và chưa nắm bắt được cơ hội tiếp cận dân cư. Đây là một tín hiệu đáng mừng cho thấy hạn chế này trong năm đầu nhiệm kỳ 2021-2026 đã được lãnh đạo Bộ Vhttdl khắc phục thông qua việc đề xuất triển khai hàng loạt đề án, dự án cụ thể như đề án số hóa văn thư. viện, dự án ứng dụng công nghệ số hóa các khu di sản.

tình trạng vi phạm bản quyền và sở hữu trí tuệ, đặc biệt là trong môi trường kỹ thuật số, là phổ biến. chưa hình thành thói quen sử dụng hàng hóa, văn hóa phẩm được bảo hộ bản quyền. do đó ảnh hưởng đến động lực sáng tạo của nghệ sĩ và quyết định đầu tư của nhà sản xuất. Cùng với hệ thống văn bản, chính sách pháp luật chưa hoàn thiện, Việt Nam vẫn chưa tạo được môi trường thuận lợi để đảm bảo phát triển công nghiệp văn hóa và kinh tế sáng tạo trong kỷ nguyên số.

4. Các giải pháp đề xuất cho ngành văn hóa nghệ thuật Việt Nam

Trên cơ sở phân tích trên, để nắm bắt lợi thế của Việt Nam, nắm bắt cơ hội và hạn chế thấp nhất những bất lợi trước thách thức của xu thế phát triển của nền công nghiệp 4.0, ngành văn hóa nghệ thuật Việt Nam cần thực hiện những điều sau giải pháp đột phá:

trước hết, cần khẩn trương xây dựng và ban hành chiến lược văn hóa số trong thời kỳ mới, trong đó ưu tiên đầu tư tài chính để triển khai ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến, hiện đại để phát triển nội dung sáng tạo trong một loạt lĩnh vực. với lợi thế cạnh tranh của ngành văn hóa nghệ thuật Việt Nam như điện ảnh, âm nhạc, nghệ thuật biểu diễn … của Anh, trong nhiều năm qua, nghệ thuật kỹ thuật số (digital art) luôn là trọng tâm trong chính sách phát triển của Hội đồng nghệ thuật Anh. coi việc sử dụng công nghệ kỹ thuật số là một cách hiệu quả để thu hút và tiếp cận khán giả mới, mở rộng việc phân phối văn hóa, nghệ thuật thông qua các nền tảng kỹ thuật số và tạo điều kiện cho mọi người sáng tạo, tạo ra các tác phẩm kỹ thuật số và hỗ trợ phát triển các loại hình và trải nghiệm nghệ thuật mới. Ở phía bên kia Đại Tây Dương, chính phủ Quebec, Canada từ năm 2012 đã tuyên bố nội dung văn hóa kỹ thuật số là trọng tâm ưu tiên và hai năm sau ban hành kế hoạch văn hóa với 3 chiến lược: sáng tạo nội dung văn hóa, số hóa, đổi mới để thích ứng với văn hóa số và phân phối nội dung văn hóa kỹ thuật số để đảm bảo rằng sự đa dạng của các biểu hiện nghệ thuật của Québec được tạo ra và có thể tiếp cận rộng rãi trong và ngoài nước. vì vậy, cần kịp thời phát triển nội dung văn hóa số như một trục ưu tiên trong chính sách văn hóa thời kỳ mới để không bị tụt hậu và kịp thời tận dụng những cơ hội mà cuộc cách mạng 4.0 mang lại.

Thứ hai, cần đổi mới toàn diện giáo dục theo hướng phát huy tư duy sáng tạo, đổi mới. cần thuyết phục các cấp lãnh đạo về vai trò của văn hóa, nghệ thuật đối với sự phát triển toàn diện về nhân cách và trí tuệ con người, đề xuất và đưa giáo dục theo mô hình hơi nước (bổ sung yếu tố nghệ thuật ”) vào kế hoạch giáo dục phổ thông. nghiên cứu, thay vì mô hình gốc (giáo dục khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học) đang được đưa vào thử nghiệm. Nếu như trước đây, stem được biết đến là hành trang tốt nhất để chuẩn bị cho sự nghiệp tương lai của thế hệ trẻ thì hiện nay, trên thế giới, ở một số quốc gia phát triển chính như các nước thống nhất, Anh, Úc … đang nổ ra những cuộc tranh luận về nó. . cần đưa “giáo dục nghệ thuật” vào mô hình này, vì nghệ thuật giúp khơi gợi, khơi gợi trí tò mò và trí tưởng tượng, khơi gợi, thúc đẩy sự sáng tạo, tư duy phản biện và đổi mới … phương pháp dạy học dựa trên dự án sẽ phát huy toàn diện khả năng sáng tạo của học sinh. khả năng, tư duy thiết kế, hiểu biết về công nghệ, hợp tác và giải quyết vấn đề. Với Steam, các kỹ năng tư duy sáng tạo và thiết kế sẽ được áp dụng vào các dự án Steam để sinh viên có thể hình dung ra những cách khác nhau để thực hiện ý tưởng và áp dụng những kỹ năng này trong công việc sau này của mình. Ở các quốc gia nói trên, giáo dục nghệ thuật đã là một phần bắt buộc trong chương trình giảng dạy của học sinh, tuy nhiên nhiều nhà giáo dục vẫn đang vận động để đưa nghệ thuật vào mô hình hơi nước. ở Việt Nam, một cách tiếp cận toàn diện ngay từ đầu là điều cần thiết. Bằng cách lấy nghệ thuật làm trọng tâm, Steam đặt con người vào trung tâm hơn là chủ thể, tạo điều kiện để phát huy tiềm năng và cá tính riêng của mỗi học sinh trong tư duy sáng tạo.

thứ ba, cần tiếp tục tập trung thúc đẩy hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia, trong đó cần có các đề án cụ thể và hoàn thiện cơ chế, chính sách hỗ trợ các không gian sáng tạo (hub), cơ sở ươm tạo, phòng thí nghiệm ý tưởng, “coworking”, các mô hình không gian làm việc chung để tạo sân chơi cho người sáng tạo, người kinh doanh, tạo kết nối, liên kết với khách hàng, người dùng, nhà đầu tư… để thử nghiệm ý tưởng trên thị trường. Khi có sự gắn bó và kết nối giữa những người trong các ngành khác nhau, điều đó sẽ giúp tăng hiệu quả, giảm chi phí và có nhiều cơ hội hơn để tạo ra các ý tưởng sáng tạo, tiếp cận thị trường và thành công trong lĩnh vực quảng cáo kinh tế.

Xem Thêm : Tính bán kính hình tròn khi biết diện tích theo 3 cách đơn giản

thứ tư, bên cạnh việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý nhằm cải thiện môi trường kinh doanh và quản lý hiệu quả thương mại điện tử, cần bổ sung, hoàn thiện các quy định của pháp luật, nâng cao hiệu quả của thương mại điện tử. môi trường xung quanh. Đặc biệt, cần phải có những biện pháp trừng phạt mạnh tay, răn đe, ngăn chặn và nhanh chóng khắc phục hậu quả để bảo vệ hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ trong môi trường số. sáng tạo và đổi mới là cốt lõi của cmcn 4.0. Chỉ bằng cách bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, chúng ta mới có thể tham gia vào sự phát triển của cuộc cách mạng này.

thứ năm, cần xây dựng cơ chế công tư để huy động trí tuệ và tiềm lực tài chính của khu vực tư nhân năng động tham gia thực hiện chiến lược văn hóa số của Việt Nam. Trên thị trường ngày nay, phim kỹ thuật số, chương trình thực tế với các ứng dụng công nghệ cao, và ngành công nghiệp âm nhạc đã phát triển rất sôi động nhờ sự đầu tư của khu vực tư nhân. Tuy nhiên, để định hướng thẩm mỹ, phát huy “bản sắc” Việt Nam và tạo dựng thương hiệu quốc gia, nhà nước cần có cơ chế phù hợp để thu hút sự quan tâm đầu tư của khu vực tư nhân vào phát triển nội dung số quốc gia và hiện đại. văn hóa, có khả năng tạo ra sản phẩm cạnh tranh trên thị trường nước ngoài. Ngoài việc xây dựng cơ chế tài chính giữa khu vực nhà nước và tư nhân trong các sáng kiến ​​chung, cần hợp pháp hóa huy động vốn cộng đồng để các ý tưởng sáng tạo của cá nhân nghệ sĩ có nguồn tài chính triển khai trên thực tế. Trong bối cảnh Việt Nam chưa có quỹ tài trợ nghệ thuật và việc tiếp cận các khoản tín dụng, vốn vay cho các dự án nghệ thuật rất hiếm, việc tạo hành lang pháp lý cho hoạt động huy động vốn cộng đồng là hết sức cần thiết, tạo điều kiện cho các công ty đổi mới sáng tạo, các nghệ sĩ thực hiện các hoạt động sáng tạo của mình. các dự án.

Vì vậy, để ứng phó thành công với nền công nghiệp 4.0, ngành văn hóa nghệ thuật Việt Nam phải nhận thức được cơ hội và thách thức, xác định điểm mạnh và điểm yếu, đề xuất các giải pháp kết hợp điểm mạnh với cơ hội, khắc phục điểm yếu, giảm thiểu rủi ro và tận dụng những cơ hội mới do tiến bộ khoa học và công nghệ mang lại trong phát triển sự nghiệp văn hóa nghệ thuật. Hơn bao giờ hết, việc này đòi hỏi sự quyết tâm cao của các nhà lãnh đạo, quản lý ngành trong việc liên kết với các bộ, ngành liên quan như khoa học và công nghệ, thông tin – truyền thông, kế hoạch – đầu tư, công thương, tài chính … và đặc biệt là liên kết với khu vực tư nhân tạo đột phá trong đầu tư ứng dụng khoa học công nghệ, triển khai chiến lược nội dung văn hóa số, đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo để khơi nguồn tư duy sáng tạo, trang bị kỹ năng cần thiết để hiện thực hóa ý tưởng thông qua việc hỗ trợ hoạt động của trung tâm sáng tạo, bảo vệ hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ và xây dựng cơ chế chính sách, tạo điều kiện phát triển các mô hình kinh doanh mới.

cmcn 4.0 đang dần thành hình, thậm chí có nguy cơ robot hóa con người, làm nghèo nàn tâm hồn và cảm xúc. do đó, tất cả chúng ta có trách nhiệm định hướng sự phát triển của cuộc cách mạng này hướng tới các mục tiêu và giá trị chung, cùng nhau xây dựng một tương lai có lợi cho mọi người, đặt mọi người lên trên hết và trao quyền cho họ. Trong nỗ lực chung này, Việt Nam cần đẩy mạnh hội nhập quốc tế, học hỏi kinh nghiệm quý báu của nước ngoài để nâng cao năng lực, phát huy trí tuệ, nắm bắt cơ hội, đóng góp cho thế giới những thành tựu của công nghệ tiên tiến hiện đại. Trong quá trình đó, ngành văn hóa nghệ thuật cần phát huy thế mạnh sáng tạo, đồng cảm, tinh thần chia sẻ trách nhiệm để đón đầu xu thế phát triển công nghệ một cách toàn diện, nhân văn, nhân văn. .

_____________

1. klaus schwab, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư: ý nghĩa, cách ứng phó , weforum.org, ngày 14 tháng 1 năm 2016.

Xem thêm: Công thức tính lưu lượng gió của quạt hút

2. pgs, dr. nguyễn văn thanh, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 lần thứ tư: những vấn đề thời sự , chủ đề trên vhttdl ngày 19 tháng 4 năm 2018.

3. octovio kulesz, chính sách văn hóa trong thời đại của nền tảng , báo cáo toàn cầu của unesco 2018), en.unesco.org.

4. hà thanh, flappy bird lọt top 25 ứng dụng ảnh hưởng nhất thập kỷ , kinhpris.vn, 18/11/2019.

5. cisac, thời đại văn hóa: bản đồ thế giới đầu tiên về các ngành công nghiệp văn hóa và sáng tạo , tháng 12 năm 2015.

6. Hoàng Phiêu, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc: “Cách mạng Công nghiệp 4.0 là cơ hội hiện thực hóa khát vọng thịnh vượng của dân tộc” , laodong.vn, ngày 17 tháng 12 năm 2017.

7. anh tu, Việt Nam trở thành trung tâm khởi nghiệp hàng đầu Đông Nam Á , vneconomy.vn, ngày 17 tháng 3 năm 2021.

tài liệu tham khảo

1. khuong nha, duy tin, cách mạng công nghiệp 4.0 là gì , news.zing.vn, ngày 29 tháng 5 năm 2017.

2. phan xuan dung, Cách mạng công nghiệp lần thứ 4: cuộc cách mạng của sự hội tụ và tiết kiệm , nhà xuất bản khoa học và công nghệ, 2018.

3. tran nguyen tuyen, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và tác động của nó đối với thế giới và Việt Nam , thông tin chuyên đề số. 21-ttcĐ / bĐntw tháng 1/2018 của ban đối ngoại trung ương đảng cộng sản việt nam.

nguyen phuong hoa

nguồn: tạp chí vhnt số 473, tháng 9 năm 2021

Nguồn: https://truongxaydunghcm.edu.vn
Danh mục: Công thức

Related Articles

Back to top button