Các dạng đề bài Rừng xà nu


Các dạng đề bài Rừng xà nu

Tổng hợp các dạng đề văn lớp 12 xoay quanh các tác phẩm đầy đủ các dạng đề đọc hiểu, đề văn phân tích, cảm nhận, nghị luận, … với hướng dẫn chi tiết giúp học sinh ôn tập đạt điểm cao trong các bài thi môn Ngữ văn lớp 12.

Các dạng đề bài Rừng xà nu - Ngữ văn lớp 12

1. Dạng đề đọc – hiểu (3-4 điểm).

Câu 1: Đọc đoạn văn và trả lời cho câu hỏi ở dưới:

“Tnú không cứu sống được vợ, được con. Tối đó, Mai chết. Còn đứa con thì đã chết rồi. Thằng lính to béo đánh một cây sắt vào ngang bụng nó, lúc mẹ nó ngã xuống, không kịp che cho nó. Nhớ không, Tnú, mày cũng không cứu sống được vợ mày. Còn mày thì bị chúng nó bắt, mày chỉ có hai bàn tay trắng, chúng nó trói mày lại. Còn tau thì lúc đó tau đứng sau gốc cây vả. Tau thấy chúng nó trói mày bằng dây rừng. Tau không nhảy ra cứu mày. Tau cũng chỉ có hai bàn tay không. Tau không ra, tau quay đi vào rừng, tau đi tìm bọn thanh niên. Bọn thanh niên thì cũng đã đi vào rừng, chúng nó đi tìm giáo mác. Nghe rõ chưa, các con, rõ chưa? Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tau chết rồi, bay còn sống phải nói lại cho con cháu: Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!…”.

a. Đoạn văn trích trong tác phẩm nào? Của ai?

* Gợi ý trả lời

– Đoạn văn trích trong tác phẩm “Rừng xà nu” – Nguyễn Trung Thành.

b. Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn trích?

* Gợi ý trả lời

– Phương thức biểu đạt của đoạn trích là: tự sự, biểu cảm

c. Câu nói “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!” có ý nghĩa gì?

* Gợi ý trả lời

Câu nói “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!” là câu nói của cụ Mết – già làng – là câu nói được đúc rút từ cuộc đời bi tráng của Tnú và từ thực tế đấu tranh của đồng bào Xô Man nói riêng và dân tộc Tây Nguyên nói chung: giặc đã dùng vũ khí để đàn áp nhân dân ta thì ta phải dùng vũ khí để đáp trả lại chúng.

Câu 2. Dựa vào truyện ngắn “Rừng xà nu” – Nguyễn Trung Thành hãy viết một đoạn văn ngắn bày tỏ suy nghĩ bản thân về trách nhiệm bảo vệ tổ quốc của tuổi trong cuộc sống hôm nay.

* Gợi ý trả lời

Học sinh có thể dựa vào những ý chính dưới đây để viết bài

– Nhận thức của bản thân về tình hình đất nước hiện nay: thời cơ và thách thức

– Bảo vệ Tổ quốc là gì ?

– Tuổi trẻ phải làm gì để góp phần bảo vệ Tổ quốc?

– Liên hệ bản thân.

Bài mẫu tham khảo

Mỗi người khi sinh ra không phải một cá nhân riêng lẻ, đều có cho mình một gia đình, một quê hương và một tổ quốc. Chúng ta không thể chối từ tổ quốc trong ta cũng như không làm gì cho tổ quốc. Sinh ra thuộc về tổ quốc và sống phải có trách nhiệm với vùng đất thiêng liêng ấy. Trước hết mỗi công dân cần phải bảo vệ độc lập, tự do cho tổ quốc mà ông cha ta đã gây dựng và giữ gìn. Biết bao thế hệ đã hy sinh về với đất mẹ “đất nước đi lên bát ngát mùa xuân”, để giờ đây ta được sống trong bầu không khí yên bình. Thật là đáng hổ thẹn nếu chúng ta đánh mất đi độc lập tự do mà ông cha đã đánh đổ giữ gìn. Như chúng ta đã biết gần đây Trung Quốc đang ngày càng ngang ngược khi tiến vào lãnh thổ Biển Đông với đường lưỡi bò, xâm phạm đến chủ quyền biển đảo của chúng ta. Mỗi người dân Việt Nam phải có trách nhiệm giữ vững mãi chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, không riêng gì những người chiến sĩ. Không chỉ bảo vệ, trách nhiệm của mỗi công dân còn là dựng xây và phát triển tổ quốc ngày càng lớn mạnh. Thế kỉ 21, thế kỉ của sự phát triển, không ngừng nâng cao trình độ văn hoá kinh tế, đất nước. Để có thể bắt kịp đà phát triển của những nước lớn mạnh thì đòi hỏi sự chung sức đồng lòng của tất cả mọi người mà lực lượng chủ yếu là tuổi trẻ. Bởi đó là lực lượng nòng cốt, là chủ nhân tương lai, là nhân vật chính góp phần tạo nên cái thế, cái dáng đứng cho non sông Tổ Quốc. Tuổi trẻ hôm nay là tôi, là bạn, là những đang hoạt động bằng cả tâm huyết để cống hiến sức trẻ với những đam mê cùng lòng nhiệt tình bốc lửa cho tổ quốc. Tuổi trẻ chỉ đến với chúng ta một lần vì vậy cần phải nắm bắt, cần đóng góp sức lực cho đất nước. Việc xây dựng và đất nước là trách nhiệm của mọi người, mọi công dân chứ không phải của riêng ai. Nhưng với số lượng đông đảo hàng chục triệu người thì lẽ nào tuổi trẻ lại không thể xây dựng đất nước. Vì vậy chúng ta phải cố gắng xây dựng đất nước như lời dặn của Bác: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, thì Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Và thời nào cũng vậy, thế hệ trẻ luôn là lực lượng tiên phong, xong pha vào những nơi gian khổ mà không ngại khó. Bước vào thời đại công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì ai nắm được tri thức thì mới có thể xây dựng đất nước, chèo lái chiếc thuyền số phận của non sông Tổ Quốc. Và nhiệm vụ của chúng ta phải học, học nữa, học mãi… Có biết bao công dân những tấm gương sáng mà chúng ta nhìn thấy đang cống hiến cho tổ quốc: đội tuyển bóng đá Việt Nam hay hoa hậu H’hen Niê,… và biết bao người đang từng ngày từng giờ cống hiến thầm lặng cho Tổ Quốc. Bạn thấy đấy, Tổ Quốc là một điều gì thiêng liêng đến nhường nào, luôn tồn tại trong trái tim mỗi người để nhắc nhở mỗi người phải làm gì đó cho tổ quốc dù chỉ là những hành động rất nhỏ. Là học sinh mỗi chúng ta cần không ngừng học tập tu dưỡng đạo đức để sau này đưa Tổ Quốc sánh vai cùng các cường quốc năm châu.

Câu 3. Xác định biện pháp tu từ cú pháp trong câu văn : “Một ngón tay Tnú bốc cháy. Hai ngón, ba ngón. Không có gì đượm bằng nhựa xà nu. Lửa bắt rất nhanh. Mười ngón tay đã thành mười ngọn đuốc”. Nêu hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ đó.

* Gợi ý trả lời

– Biện pháp tu từ cú pháp trong câu văn : Một ngón tay Tnú bốc cháy. Hai ngón, ba ngón. Không có gì đượm bằng nhựa xà nu. Lửa bắt rất nhanh. Mười ngón tay đã thành mười ngọn đuốc là: liệt kê, tăng tiến.

🡪  Hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ đó là: tố cáo tội ác man rợ của kẻ thù. Ca ngợi tinh thần trung thành cách mạng,bản lĩnh kiên cường, dũng cảm của nhân vật Tnú. Đó còn là biểu tượng bi hùng, giàu chất sử thi và cảm hứng lãng mạn

Câu 4. Trong đoạn văn dưới đây, Nguyễn Trung Thành sử dụng các biện pháp tu từ như so sánh, nhân hoá, đối lập. Xác định biểu hiện các phép tu từ đó và nêu tác dụng của hình thức nghệ thuật này là gì ?

Trong rừng ít có loại cây sinh sôi nảy nở khỏe như vậy. Cạnh một cây xà  nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi  tên lao thẳng lên bầu trời. Cũng ít có loại cây ham ánh sáng mặt trời đến thế. Nó  phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây  bay ra. Có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đại bác chặt đứt  làm đôi. Ở những cây đó, nhựa còn trong, chất dầu còn loãng, vết thương không  lành được, cứ loét mãi ra, năm mười hôm thì cây chết. Nhưng cũng có những  cây vượt lên được cao hơn đầu người, cành lá sum sê như những con chim đã đủ  lông mao lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của  chúng chóng lành như những vết thương trên một thân thể cường tráng. Chúng vượt lên rất nhanh, thay thế những cây đã ngã… Cứ thế, hai ba năm nay rừng xà  nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng…

                                                      (Trích Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành)

* Gợi ý trả lời

– Trong đoạn văn trên, Nguyễn Trung Thành sử dụng các biện pháp tu từ như so sánh, nhân hoá, đối lập.

 a/ Biểu hiện các phép tu từ đó là:

– So sánh : Trong rừng ít loại cây sinh sôi nảy nở khoẻ như vậy ; Nhưng cũng có những  cây vượt lên được cao hơn đầu người, cành lá sum sê như những con chim đã đủ  lông mao lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của  chúng chóng lành như những vết thương trên một thân thể cường tráng.

– Nhân hoá:  những vết thương của  chúng chóng lành ; Chúng vượt lên rất nhanh; rừng xà  nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng…

– Đối lập: Cạnh một cây xà  nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên; Ở những cây đó, nhựa còn trong, chất dầu còn loãng, vết thương không  lành được, cứ loét mãi ra, năm mười hôm thì cây chết. Nhưng cũng có những  cây vượt lên được cao hơn đầu người, cành lá sum sê 

b/Tác dụng của hình thức nghệ thuật này là:

– Biện pháp so sánh nhằm ca ngợi sức cống hiếm có của cây xà nu.

– Biện pháp nhân hoá khiến xà nu không chỉ hiện lên ở phương diện sinh vật học với đặc tính dẻo dai, sức chịu đựng tốt mà còn trở thành sinh thể sống, đang chịu những đau đớn về thể xác nhưng bất khuất, kiên cường, gan dạ, bản lĩnh, ẩn tàng một sức sống bất diệt, một tâm hồn giàu chất thơ.

– Biện pháp đối lập giữa cây xà nu ngã gục với mọc lên, giữa cái chết với sự sống nhằm khẳng định sự sống sinh ra từ trong cái chết, mạnh hơn cái chết của cây xà nu cũng chính là tượng trưng cho con người Tây Nguyên đau thương mà anh dũng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

2. Dạng đề viết bài văn (4-6 điểm)

Đề 1: Phân tích truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành.

* Gợi ý trả lời 

1. MỞ BÀI 

– Giới thiệu tác giả Nguyễn Trung Thành (tiểu sử, các tác phẩm chính, đặc điểm sáng tác…)

– Giới thiệu khái quát tác phẩm Rừng xà nu (hoàn cảnh ra đời, tóm tắt ngắn gọn giá trị nội dung và nghệ thuật)

2. THÂN BÀI 

a) Luận điểm 1: Hình tượng rừng xà nu

– Rừng xà nu là hình tượng xuất hiện xuyên suốt toàn bộ tác phẩm

– Rừng xà nu có mối quan hệ chặt chẽ và gắn bó sâu sắc với mảnh đất Tây Nguyên:

+ Có trong mối quan hệ hằng ngày: những bếp lửa đốt bằng cây xà nu, lửa mười đầu ngón tay Tnú tẩm bằng nhựa cây xà nu, khói xà nu làm thành bảng đen cho Tnú và Mai học chữ, dân làng Xô Man sống cùng cây xà nu, hẹn hò nhau dưới bóng cây xà nu và thậm chí chết họ cũng yên nghỉ bên cạnh cây xà nu.

+ Xuất hiện cả trong những sự kiện trọng đại: cụ Mết kể chuyện cho dân làng nghe, ngọn lửa cây xà nu chiếu sáng cho cả dân làng mài giáo đánh giặc,…

+ Ăn sâu vào suy nghĩ, tiềm thức của người dân Xô Man

=> Mối quan hệ rất đặc biệt, gắn bó khăng khít và trở thành một phần máu thịt của dân làng Xô Man

– Rừng xà nu như một sinh thể, chịu sự tàn phá dữ dội của chiến tranh: cả rừng xà nu hàng vạn cây không cây nào là không bị thương, có những cây bị chặt đứt đổ ào ào như trận bão, vết thương không lành được loét mãi ra năm mười hôm thì cây chết,…

– Cây xà nu có sức sống mãnh liệt, sinh sôi, nảy nở rất nhanh và rất khỏe: “cạnh cây xà nu mới gục ngã đã có 4,5 cây con mọc lên”, “cây mẹ ngã đã có cây con mọc lên”, “nó vẫn sống đấy (…) Đố nó giết hết rừng xà nu này”

=> Hình ảnh biểu tượng cho sức sống mạnh mẽ và sự nối tiếp của các thế hệ con người Tây Nguyên

– Loại cây ham ánh sáng mặt trời: “Cũng có ít loại cây ham ánh sáng mặt trời tới thế (…) thơm mỡ màng”. Nó cũng giống như những con người Tây Nguyên luôn khao khát tự do và có một sức sống mãnh liệt

b) Luận điểm 2: Các thế hệ anh hùng Tây Nguyên

* Cụ Mết

– Ngoại hình: râu dài tới ngực và vẫn đen bóng, mắt sáng và xếch ngược, vết sẹo ở má láng bóng, ngực căng như một cây xà nu lớn

– Tính cách: cụ Mết như một cây xà nu cổ thụ, luôn yêu thương và hết mực che chở cho dân làng. Cụ Mết là biểu tượng thế hệ anh hùng đi trước, hội tụ vẻ đẹp con người Tây Nguyên – quả quyết, gan dạ, sáng suốt, biết nhìn xa trông rộng.

* Tnú

– Tnú xuất hiện qua lời kể của cụ Mết

– Tnú là một người chiến sĩ:

+ Gan góc, gan lì, thông minh, sáng dạ: khi còn nhỏ cùng Mai vào rừng tiếp tế cho anh Quyết

+ Dũng cảm và tuyệt đối trung thành với cách mạng: bị lửa đốt mười đầu ngón tay Tnú không thèm kêu van, không khai ra, bị giặc bắt, tra tấn, lưng Tnú ngang dọc vết dao chém của kẻ thù nhưng anh vẫn gan góc, trung thành

+ Tính kỷ luật cao: cấp trên cho về một đêm thì Tnú về một đêm, sáng hôm sau lại đi ngay

– Tnú là người chồng, người cha hết mực yêu thương vợ, con: khi chứng kiến cảnh mẹ con Mai bị tra tấn “con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”, “Tnú nhảy xổ ra”

– Tnú là người con của buôn làng Xô Man, luôn gắn bó và đầy tình nghĩa với dân làng: xin về thăm làng một đêm, để nước suối của làng giội lên người

=> Tnú là người con ưu tú của núi rừng Tây Nguyên, là nòng cốt của cuộc kháng chiến, biết nén đau thương của cá nhân vì lợi ích của cả cộng đồng, dân tộc

* Nhân vật Dít và bé Heng

– Dít: Là người con gái gan dạ, dũng cảm, có sức chịu đựng phi thường, biết nén đau thương để nung nấu ý chí trả thù: đem gạo vào rừng cho dân làng, giặc bắn súng dọa vẫn không khai, chị mất nhưng không khóc,…

– Bé Heng: còn nhỏ tuổi nhưng đã tham gia làm nhiệm vụ cách mạng: thông thuộc từng hố chông, từng chiến điểm để dẫn đường cho cán bộ cách mạng, cho khách đến làng. Bé Heng là thế hệ tiếp nối, kế tục cha anh để đưa cuộc chiến tới thắng lợi cuối cùng.

=> Họ là một tập thể anh hùng, là sự nối tiếp nhau qua các thế hệ, biểu tượng cho vẻ đẹp của con người Tây Nguyên: giàu tình yêu thương, căm thù giặc sâu sắc, trung thành với cách mạng.

3. KẾT BÀI 

– Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm:

+ Rừng xà nu là câu chuyện về cuộc đời của Tnú, sự giác ngộ lí tưởng cách mạng và cuộc nổi dậy từ tự phát đến tự giác của dân làng Xô Man biểu trưng cho cả đất nước Việt Nam đau thương mà quật cường trong kháng chiến chống Mĩ.

+ Rừng xà nu đã xây dựng được những hình tượng mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc: cây xà nu; những thế hệ xà nu – những thế hệ của bản làng Xô Man, của mảnh đất Tây Nguyên; người anh hùng Tnú.

Đề 2: Phân tích hình tượng cánh rừng xà nu.

* Gợi ý trả lời 

1. MỞ BÀI 

– Giới thiệu tác giả Nguyễn Trung Thành và tác phẩm Rừng xà nu

+ Nguyễn Trung Thành (bút danh Nguyên Ngọc) là một nhà văn, nhà báo, biên tập, dịch giả, nhà nghiên cứu văn hóa, giáo dục nổi tiếng của Việt Nam.

+ “Rừng xà nu” là truyện ngắn đặc sắc của Nguyễn Trung Thành lấy cảm hứng từ hình tượng cây xà nu và những “anh hùng dân tộc” ở làng Xô Man trong kháng chiến chống Mỹ.

– Dẫn dắt, giới thiệu hình tượng cây xà nu: Rừng xà nu là hình tượng xuất hiện xuyên suốt toàn bộ tác phẩm, biểu tượng cho sức sống mạnh mẽ và sự nối tiếp của các thế hệ con người Tây Nguyên.

2. THÂN BÀI

– Rừng xà nu là hình tượng xuất hiện xuyên suốt toàn bộ tác phẩm.

a. Luận điểm 1:Rừng xà nu, cây xà nu gắn bó với cuộc sống và mọi sinh hoạt của dân làng Xô Man.

– Xà nu là một loại cây rất phổ biến và gắn liền với đời sống người dân vùng Tây Nguyên.

– Từ xưa đến nay, xà nu vẫn luôn hiện hữu trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày của dân làng:

+ Ngọn lửa xà nu nấu ăn trong mỗi bếp của gia đình người Xô Man

+ Lửa xà nu bập bùng trong nhà rông

+ Đuốc xà nu soi sáng đường rừng đêm, làm tấm bảng đen cho anh Quyết dạy Mai và Tnú học chữ.

– Xà nu xuất hiện trong những sự kiện trọng đại và ăn sâu vào tiềm thức, suy nghĩ của những người dân làng Xô Man:

+ Cụ Mết kể chuyện cho dân làng nghe, ngọn đuốc cháy sáng trên tay cụ Mết và cả dân làng Xô Man đi vào rừng sâu lấy giáo mác để chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa.

+ “đêm đêm cả dân làng thức mài vũ khí dưới ánh đuốc ngọn xà nu”.

+ Sống cùng cây xà nu, chết cạnh cây xà nu.

=> Cây xà nu, rừng xà nu có mối quan hệ rất đặc biệt, gắn bó khăng khít và máu thịt với dân làng Xô Man.

b. Luận điểm 2: Cây xà nu – biểu tượng cho những đau thương, mất mát của dân làng Xô Man.

– “Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn, cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão.”

– “Nơi chỗ vết thương, nhựa ứa ra tràn trề thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt rồi dần dần bầm lại, đen và đặc lại quện thành cục máy lớn.”

– Những thương tích ấy đã gợi lên trong chúng ta biết bao đau thương, mất mát và cả sự hi sinh của những con người Tây Nguyên: anh Xút, bà Nhan,…

c. Luận điểm 3: Cây xà nu – hình ảnh tượng trưng cho sức sống bất diệt, mãnh liệt của dân làng Xô Man.

– “Cạnh cây xà nu mới gục ngã đã có bốn năm cây non mọc lên, ngọn cây xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”.

– Hình ảnh những cây xà nu vươn thẳng lên bầu trời cũng như các thế hệ dân làng Xô Man cứ lớp này đến lớp khác, thế hệ này đến thế hệ khác nối tiếp nhau đứng lên chiến đấu.

4. Luận điểm 4: Cây xà nu – hình ảnh tượng trưng cho khát vọng tự do và niềm tin vào cách mạng của dân làng Xô Man.

– Cây xà nu là loại cây “ham ánh sáng mặt trời. Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng thẳng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng.”

– Hình ảnh những cây xà nu vươn thật cao, thật xa để đón lấy ánh nắng mặt trời gợi lên trong chúng ta niềm khát khao tự do, ước muốn vươn tới tương lai tươi sáng của những con người Xô Man.

– Ánh sáng mặt trời mà những cây xà nu đang vươn tới phải chăng là ánh sáng của Đảng, của cách mạng

3. KẾT BÀI 

– Khái quát về hình tượng cây xà nu: Hình tượng cây xà nu trong tác phẩm mang đậm chất sử thi, tính hào hùng, nó làm rõ chủ đề tư tưởng của truyện ngắn “Rừng xà nu”.

– Nghệ thuật xây dựng hình tượng rừng xà nu: sử dụng những câu văn miêu tả, những từ ngữ, hình ảnh chọn lọc đặc sắc, nghệ thuật so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, giọng văn miêu tả linh hoạt.

Đề 3: Phân tích hình tượng nhân vật Tnú

* Gợi ý trả lời 

1. MỞ BÀI 

– Giới thiệu tác giả và tác phẩm:

+ Nguyễn Trung Thành là nhà văn gắn bó với Tây Nguyên.

+ Rừng xà nu là một trong những tác phẩm thành công viết về mảnh đất này.

– Giới thiệu hình tượng nhân vật Tnú: Tnú là nhân vật trung tâm của tác phẩm – người anh hùng kết tinh vẻ đẹp của cộng đồng.

2. THÂN BÀI 

a)Luận điểm 1: Tnú – người chiến sĩ gan lì, quả cảm, gắn bó và tuyệt đối trung thành với cách mạng

– Lúc còn bé đến khi trở thành chiến sĩ

+ Cha mẹ mất sớm, Tnú được người dân làng Xô man cưu mang, nuôi lớn.

+ Tnú đã sớm có lòng yêu thương nhân dân, làng xóm

+ Tnú từ nhỏ đã tỏ ra gan góc, táo bạo và nỗ lực hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao

Xem Thêm : Những công thức tính hệ số góc

Hăng hái xung phong vào rừng bảo vệ cho bộ đội, bất chấp sự khủng bố dã man của địch.

Khi bị kẻ địch bắt, bị tra tấn dã man, bị tra hỏi, Tnú nuốt luôn lá thư vào bụng rồi chỉ tay lên bụng mình mà nói “cộng sản ở đây này”

– Tnú khi trưởng thành và bi kịch gia đình

+ Sau thời gian 3 năm ở tù, Tnú đã vượt ngục để trở về lãnh đạo dân làng Xô man đánh giặc.

+ Tnú bị bắt trói, bị đốt 10 đầu ngón tay, vợ con bị giặc giết chết trước mặt

+ Nỗi đau trào dâng lên trong người nhưng Tnú không kêu van “người cộng sản không hề kêu van”, “trợn mắt nhìn thằng Dục”,… nén nỗi đau lại để đứng lên đánh giặc.

– Sự trung thành tuyệt đối với cách mạng, tính kỉ luật cao

+ Còn nhỏ đã tin tưởng vào Đảng, vào cách mạng “Cán bộ là Đảng, Đảng… này còn”.

+ Sau đêm kinh hoàng (vợ con bị giết), anh không bi quan mà gia nhập lực lượng giải phóng quân trả thù cho dân làng, gia đình.

+ Khi lập được chiến công, được nghỉ 1 ngày phép về thăm làng, anh đã chấp hành đúng quy định.

– Hình ảnh đôi bàn tay Tnú:

+ Bàn tay yêu thương: anh Quyết nắm lấy tay Tnú, Mai nắm lấy tay Tnú khi anh trở về,…

+ Bàn tay đau thương: chứng kiến cảnh vợ con chết, chịu sự tra tấn của kẻ thù.

+ Bàn tay căm thù: chứng tích của lòng hận thù.

+ Bàn tay báo thù: giết giặc trả thù cho Mai, cho con, cho dân làng Xô Man.

+ Là nhân chứng cho con đường của dân làng Xô Man: “chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo”.

=> Lòng căm thù giặc và quyết tâm đánh bại kẻ thù trong Tnú đã trở thành động lực to lớn, thúc đẩy Tnú hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của một người chiến sĩ.

b)Luận điểm 2: Tnú – người chồng, người cha hết mực yêu thương vợ con

– Tnú và Mai đã cùng nhau lớn lên trong những năm tháng chiến tranh khốc liệt, rồi trở thành vợ chồng và chào đón đứa con đầu lòng trong niềm hạnh phúc ngập tràn.

– Tuy nhiên, niềm hạnh phúc nhỏ nhoi, bình dị ấy đã bị kẻ thù tàn bạo phá vỡ:

+ Chúng đã bắt vợ và con anh rồi tra tấn, đánh đập dã man

+ Chúng tin rằng “bắt được con cọp cái và cọp con tất sẽ dụ được cọp đực trở về” nhưng rồi đến cuối cùng chúng đã giết chết mẹ con Mai.

– Tnú đã chứng kiến cái chết của vợ con mình, anh “đã bứt đứt cả hàng chục trái vả mà không hay. Anh chồm dậy (…) ở chỗ con mắt Tnú bây giờ là hai cục lửa lớn.”

=> Hành động của Tnú xét đến cùng là biểu hiện của người chồng, người cha hết mực yêu thương vợ con.

c)Luận điểm 3: Tnú – người con đầy nghĩa tình với dân làng Xô-man.

– Khi tham gia lực lượng giải phóng quân, anh rất nhớ nhà, nhớ quê hương

– Dù chỉ được về phép một đêm anh vẫn trở về.

– Trở về thăm quê sau ba năm đi chiến đấu, anh vẫn nhớ như in từng hàng cây, từng con đường, từng dòng suối.

d) Đặc sắc nghệ thuật

– Xây dựng nhân vật bằng bút pháp sử thi

– Sử dụng nhiều chi tiết có giá trị biểu tượng (đôi bàn tay Tnú)

– Ngôn ngữ kể chuyện mang đậm màu sắc Tây Nguyên

– Ngôn ngữ của nhân vật có tính cá thể hóa, thể hiện được khẩu khí của những người anh hùng

– Nghệ thuật trần thuật điểm nhìn từ nhân vật cụ Mết

– Kết cấu truyện lồng trong truyện.

3. KẾT BÀI 

– Khái quát lại vẻ đẹp của nhân vật Tnú

– Nêu cảm nhận, đánh giá của em về nhân vật.

Đề 4: Phân tích phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong truyện ngắn Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành.

* Gợi ý trả lời 

a) Mở bài

Trong truyện ngắn Rừng xà nu, nhà văn Nguyễn Trung Thành đã thể hiện rất thành công phẩm chất anh hùng của các nhân vật như cụ Mết, anh Quyết, Tnú, Mai, Dít, bé Heng…

b) Thân bài

* Chủ đề tác phẩm và bối cảnh trong truyện

– Chủ đề

Nỗi đau riêng đến xé lòng của cá nhân và nỗi đau chung lớn lao của bản làng, dân tộc đã thôi thúc Tnú và dân làng Xô Man đồng khởi tiêu diệt quân cướp nước để tự cứu mình đồng thời cũng là góp phần giải phóng quê hương.

– Bối cảnh lịch sử

Cuộc chiến tranh cục bộ bắt đầu ở miền Nam nước ta (1965). Thủy quân lục chiến Mĩ ồ ạt đổ vào bãi biển Chu Lai (Quảng Nam). Kẻ thù quyết tiêu diệt bằng được lực lượng cách mạng. Dó đó, muôn người như một, thà chết chứ không chịu làm nô lệ, nhân dân miền Nam đứng dậy dùng bạo lực trả lời bạo lực. Tại một làng nhỏ ở Tây Nguyên, toàn thể dân làng “tức nước vỡ bờ” nên đồng tâm hiệp lực nổi dậy tiêu diệt kẻ thù.

* Tình cảm quê hương đất nước sâu nặng qua thiên truyện “Rừng xà nu”

– Tình cảm yêu thương, gắn bó với bản làng, với núi rừng Tây Nguyên của dân làng Xô Man.

– Lòng căm thù giặc sâu sắc, không khuất phục trước kẻ thù.

– Trung thành với cách mạng, tin tưởng tuyệt đối vào sự thắng lợi của cách mạng.

* Phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong truyện

– Cụ Mết

Cụ Mết đại diện cho vẻ đẹp của thế hệ cha anh đã trải nghiệm nhiều trong đấu tranh, giàu kinh nghiệm khi đối diện với quân thù (từ thời kháng chiến chống Pháp đến kháng chiến chống Mĩ).

+ Cụ như một nhân vật huyền thoại từ hình dáng cho đến tính cách: quắc thước, râu dài tới ngực và đen bóng, mắt sáng xếch ngược, ở trần, ngực căng như một cây xà nu lớn.

+ Cụ là một con người trầm tĩnh, sáng suốt, bền bỉ và vững chãi.

+ Cách nói khác lạ : không bao giờ khen tốt, lúc vừa ý nhất cũng chỉ nói được.

+ Tấm lòng của cụ với buôn làng, với Tnú, với cách mạng là tấm lòng thuỷ chung, cưu mang đùm bọc, tình nghĩa.

=> Cụ Mết là khuôn mẫu của người già Tây Nguyên, yêu buôn làng, yêu nước, yêu cách mạng, tuổi cao chí càng cao. Hình ảnh cụ còn sống mãi với câu nói bất hủ: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”.

– Anh Quyết

Anh Quyết là đại diện của Đảng, là linh hồn của cuộc chiến đấu. Anh đã đến dìu dắt, hướng dẫn dân làng Xô Man giác ngộ cách mạng.

– Tnú

Tnú tiêu biểu cho số phận và ý chí của dân làng. Anh hăng hái đi đầu trong phong trào đồng khởi, hiên ngang đối diện với kẻ thù, với cái chết.

+ Cuộc đời Tnú đã trải qua bao thử thách khốc liệt từ thuở ấu thơ, được hoàn cảnh hun đúc thành một con người có nhiều phẩm chất đáng quý.

+ Tnú có chữ, có văn hoá, lại sớm được giác ngộ cách mạng, một con người gan góc, trung thực, dũng cảm, kiên cường, trung thành với cách mạng.

+ Ngoài tình thương vợ con, Tnú còn là người nặng tình với buôn làng.

+ Tnú cũng chịu bao đau thương dưới bàn tay tội ác của kẻ thù.

=> Cuộc đời Tnú là một minh chứng hùng hồn rằng: “phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng”.

– Mai: Mai là đại diện cho vẻ đẹp của thế hệ thanh niên.

+ Sớm giác ngộ cách mạng, tình yêu đối với cách mạng: cùng với Tnú che giấu cán bộ, giúp đỡ cán bộ…

+ Từ nhỏ đã là một cô bé thông minh, khéo léo: cùng với Tnú học chữ, lên rừng bảo vệ các chiến sĩ cách mạng.

+ Lớn lên là một người mẹ yêu thương con, sẵn sàng hi sinh thân mình để che chở đứa con thơ.

+ Một người phụ nữ kiên cường, bản lĩnh, giàu tinh thần cách mạng: Sẵn sàng chịu đòn roi kẻ thù nhưng không kêu lên một tiếng, không khai ra chỗ ở của Tnú. Đặc biệt ánh mắt khi nhìn kẻ thù: bình tĩnh mà đầy sức mạnh…

– Dít: Dít tiêu biểu cho những cô gái Tây Nguyên thời chống Mĩ, trưởng thành từ những đau thương và quật khởi của dân làng.

+ Dít nhỏ, lanh lẹn, có vẻ đẹp trẻ trung, trong sáng, gan góc, dũng cảm.

+ Khi bị giặc bắt, Dít bị chúng bắn dọa, đạn chỉ sượt qua tai, xém tóc, cày đất quanh hai chân nhỏ (…) nhưng đôi mắt nó thì vẫn nhìn bọn giặc bình thản lạ lùng…

+ Khi Mai chết, Dít vẫn lầm lì, không nói gì cả, mắt ráo hoảnh

=> Tính cách kiên cường, sức chịu đựng phi thường, biết dồn nén đau thương để nung nấu lòng căm thù.

+ Một cán bộ Đảng trẻ, có năng lực, nghiêm túc, tình cảm trong sáng, cao đẹp.

– Bé Heng: Bé Heng là một tiểu anh hùng, là đại diện cho vẻ đẹp của thế hệ mới lớn của núi rừng Tây Nguyên.

+ Trưởng thành với cách ăn mặc và trang bị ra vẻ một người lính, một chiến sĩ du kích của bản làng.

+ Góp phần không nhỏ vào việc thiết lập những công sự (hầm chông, hố chông) trên con đường vào làng.

c) Kết bài

– Mỗi nhân vật trong truyện đều có mỗi vẻ đẹp anh hùng khác nhau nhưng họ đều là những người đại diện cho nhân dân, cho cộng đồng. Họ là những hình mẫu tiêu biểu của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong những năm kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

Đề 5: So sánh nhân vật Tnú “Rừng xà nu” và nhân vật Việt “Những đứa con trong gia đình”.

* Gợi ý trả lời 

1. Mở bài

Đưa ra khẳng định trong đề bài: Qua 2 nhân vật Tnú và Việt thì 2 tác giả Nguyễn Trung Thành và Nguyễn Thi đã ca ngợi vẻ đẹp của con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ thông qua một kiểu nhân vật anh hùng trong văn học.

2. Thân bài

– Cả hai tác giả Nguyễn Trung Thành và Nguyễn Thi đều gắn bó với cuộc chiến đấu chống Mĩ, là những nhà văn chiến sĩ ở tuyến đầu máu lửa . Tác phẩm của họ mang hơi thở nóng hổi của cuộc chiến đấu với những hình tượng nhân vật sinh động, bước vào văn học từ thực tế chiến đấu.

– Hai truyện ngắn “Rừng xà nu” (1965), “Những đứa con trong gia đình” (1966) đều ra đời trong giai đoạn ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, khi đế quốc Mĩ đổ quân vào miền Nam nước ta, dân tộc ta đứng trước trận chiến một mất một còn để bảo vệ độc lập tự do, bảo vệ quyền sống. Đó là bối cảnh lịch sử để từ đó hai tác phẩm ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với chất sử thi đậm đà.

– Qua hai thiên truyện, tác giả đã giúp người đọc khám phá, khâm phục, tự hào trước vẻ đẹp anh hùng cách mạng của những con người bình thường, giản dị mà anh dũng, kiên cường và rất mực trung thành, thuỷ chung với cách mạng. Là sự trung thành với lí tưởng cách mạng được thử thách trong những hoàn cảnh khốc liệt, qua đó bộc lộ được vẻ đẹp của phẩm chất anh hùng có tính chất tiêu biểu cho cả dân tộc.

– Họ đều là những người con được sinh ra từ truyền thống bất khuất của gia đình, của quê hương, của dân tộc:

+ Tnú là người con của làng Xô Man, nơi từng người dân đều hướng về cách mạng, bảo vệ cán bộ “ Đảng còn thì núi nước này còn”

+ Việt sinh ra trong gia đình có truyền thống yêu nước, căm thù giặc: Cha là cán bộ cách mạng, má là người phụ nữ Nam bộ kiên cường trong đấu tranh, hai con tiếp nối  tưởng của cha mẹ. (Những đứa con trong gia đình).

– Họ đã chịu nhiều đau thương, mất mát do kẻ thù gây ra, tiêu biểu cho đau thương mất mát của cả dân tộc:

+ Tnú chứng kiến cảnh vợ con bị kẻ thù tra tấn đến chết, bản thân bị giặc đốt mười đầu ngón tay.

+ Việt chứng kiến cái chết của ba má: ba bị chặt đầu, má chết vì đạn giặc. Những đau thương đó hun đúc tinh thần chiến đấu, lòng căm thù giặc sâu sắc của con người Việt Nam.

– Biến đau thương thành sức mạnh chiến đấu cũng là một biểu hiện của chủ nghĩa anh hùng cách mạng:

+ Tnú lên đường đi “lực lượng” dù mỗi ngón tay mất đi một đốt,

+ Việt vào bộ đội, coi việc đánh giặc trả nợ nước thù nhà là lẽ sống.

– Họ chiến đấu bởi sức mạnh của lòng căm thù giặc, cũng là bởi sức mạnh của tình yêu thương, vì: chỉ có cầm vũ khí đứng lên, ta mới có thể bảo vệ được những gì thiêng liêng nhất, bảo vệ tình yêu và sự sống.

Chân  đó đã được minh chứng qua số phận và con đường cách mạng của những người dân Nam Bộ trong hai tác phẩm trên, chân  đó cũng được rút ra từ thực tế đau thương mất mát nên nó càng có giá trị, càng phải khắc sâu vào lòng người.

– Họ đều mang phẩm chất anh hùng, bất khuất, là những con người Việt Nam kiên trung trong cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm: sống có lý tưởng, sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc; họ có ý chí, nghị lực, quyết tâm; họ dũng cảm, thông minh, mưu trí, ham học.

+ Tnú từ nhỏ đã gan dạ, đi liên lạc bị giặc bắt được, tra tấn dã man vẫn không khai. Anh vượt ngục trở về, lại là người lãnh đạo thanh niên làng Xô Man chống giặc, bị đốt mười ngón tay vẫn không kêu rên trước mặt kẻ thù  Ở Tnú toát lên vẻ đẹp của người anh hùng trong sử thi Tây Nguyên và vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng thời đại chống Mĩ.

+ Việt bị thương trong trận đánh lại lạc mất đơn vị, vẫn chắc tay súng quyết tâm tiêu diệt kẻ thù. Đối với chị, Việt ngây thơ, nhỏ bé. Còn trước kẻ thù, Việt vụt lớn lên, chững chạc trong tư thế người anh hùng.

– Đều là những nhân vật anh hùng giàu lòng yêu thương:

+ Tnú: tình cảm với vợ con, tình cảm với buôn làng, quê hương.

+ Việt: tình cảm với gia đình (chị Chiến, ba má, chú Năm); tình cảm với đồng đội

– Họ đều có tâm hồn trong sáng, hồn nhiên, lạc quan yêu đời.

=> Tóm lại, các nhân vật của hai truyện ngắn đều đã vượt lên nỗi đau và bi kịch cá nhân để sống có ích cho đất nước. Những đau thương của họ cũng chính là đau thương của dân tộc trong những năm tháng thương đau của chiến tranh. Tinh thần quả cảm, kiên cường của họ cũng chính là tinh thần của cả dân tộc Việt Nam, là biểu hiện cao đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng.

Nghệ thuật xây dựng nhân vật:

+ Nhân vật Việt:

Với nghệ thuật trần thuật tác giả để cho nhân vật tự kể về cuộc đời của mình và các nhân vật khác theo dòng hồi tưởng. Giọng điệu trữ trình – tự sự.

Vừa có tính khái quát (đậm màu sắc sử thi).

Vừa mang nét riêng, ấn tượng (ngôn ngữ, hành động, sinh hoạt…thể hiện hình ảnh của người dân Nam Bộ).

Xem Thêm : BJYX là gì?

+ Nhân vật Tnú:

Hiện lên qua lời kể của tác giả, lời kể của nhân vật (cụ Mết). Giọng kể mang đậm tính sử thi.

Đặt nhân vật vào những tình huống mang tính quyết liệt, đột ngột tạo độ căng sử thi.

Đặt nhân vật trong mối quan hệ với các nhân vật khác trong tác phẩm. Để khắc hoạ vẻ đẹp phẩm chất của nhân vật.

Ngôn ngữ mang đặc trưng của người Tây nguyên.

3. Kết bài

+ 2 nhân vật đại diện cho thể loại nhân vật anh hùng trong văn học thời chống Mĩ.

+ Là đại diện cho vẻ đẹp của con người Việt Nam: chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

+ Khẳng định vị trí của 2 nhân vật trong lòng người đọc, rút ra bài học cho bản thân.

Đề 6: Phân tích  chất sử thi trong “Rừng Xà nu” của Nguyễn Trung Thành

* Gợi ý trả lời 

I. Mở bài:

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm, chất sử thi của tác phẩm.

II. Thân bài

1.Khái niệm Sử thi

– Sử thi là những áng văn tự sự (bằng văn vần hoặc văn xuôi), có quy mô hoành tráng, miêu tả và ca ngợi những thành tựu, những sự kiện có tính chất toàn dân và có ý nghĩa trọng đại đối với cộng đồng, ca ngợi những anh hùng bộ tộc mang sức mạnh thần kỳ, tiêu biểu cho phẩm chất và khát vọng của bộ tộc (như anh hùng Rama trong Sử thi Ramayana; Hector trong sử thi Iliat, Ôđixê của Hy Lạp..v.v…Ở Việt Nam có người anh hùng Đăm Săn trong Bài ca Đăm Săn của người Ê Đê…)

– Mỗi bộ sử thi chính là niềm tự hào to lớn của dân tộc đó. Sử thi thời cổ đại là thể loại một đi không trở lại. Nền văn học hiện nay không còn thể loại sử thi nữa nhưng cái không khí, tính chất của sử thi vẫn được người cầm bút mang vào trong các sáng tác. Và chất sử thi đã làm nên giá trị, làm nên sức sống cho từng trang viết, làm sống lại không khí hùng tráng của một thời đại anh hùng. Một số truyện ngắn tiêu biểu minh họa cho sự tồn tại của nền văn học sử thi trong Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 như: Truyện ngắn Những đứa con trong gia đình, Người mẹ cầm súng của nhà văn Nguyễn Thi, truyện ngắn Rừng xà nu, tiểu thuyết Đất nước đứng lên của nhà văn Nguyễn Trung Thành, tiểu thuyết Hòn Đất của Anh Đức…

2. Hoàn cảnh sử thi

– Truyện ngắn Rừng xà nu được in trong tập truyện ngắn Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc.Tác phẩm được viết vào năm 1965. Đây là thời điểm Mỹ đổ quân tham chiến ở miền Nam. Cuộc kháng chiến chống Mỹ ở Miền Nam ở vào hồi quyết liệt: giặc Mỹ điên cuồng đánh phá Cách mạng miền Nam. Trước sự hủy diệt tàn bạo của kẻ thù, tinh thần đấu tranh cách mạng của nhân dân (từ miền ngược đến miền xuôi) càng kiên cường và bất khuất “Họ đã xuống đường và đem cả lương tâm và nhân phẩm bắn tỏa lên bầu trời đầy giặc giã” (Chu Lai)

3. Chất sử thi thể hiện trong tác phẩm Rừng Xà Nu

Luận điểm 1: Chất sử thi được thể hiện qua bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ vừa đậm chất thơ của núi rừng Tây Nguyên.

– Thiên nhiên trong Rừng xà nu thấm đẫm một cảm hứng sử thi và chất thơ hào hùng thể hiện qua từng trang sách miêu tả về rừng xà nu. Mở đầu tác phẩm là hình ảnh “cả rừng xà nu hàng vạn cây”, thì kết thúc tác phẩm vẫn là rừng xà nu “nối tiếp nhau chạy đến chân trời”. Đó chính là bức tranh thiên nhiên toàn cảnh về cuộc chiến tranh nhân dân rộng lớn và hào hùng của dân tộc ta.

Bằng nhiều thủ pháp nghệ thuật như: nhân cách hóa, ẩn dụ, tượng trưng, so sánh, bi tráng hóa… nhà văn đã dựng nên bức tranh rừng xà nu ở nhiều góc độ:

– Rừng xà nu chịu nhiều đau thương mất mát do bom đạn của kẻ thù gây ra.

– Sức sống mãnh liệt của cây xà nu không bom đạn nào có thể khuất phục được (So sánh với sức sống của con người Xô Man)

– Cây xà nu ham ánh sáng, yêu tự do, luôn vươn lên đón ánh nắng và khí trời.

– Cây xà nu vững chãi với thế đứng “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho cả dân làng”.

“Một cây ngã cả rừng cây lại mọc
Người tiếp người đã mấy vạn mùa xuân”

                                                                 (Nhà văn Nguyễn Trung Thành)

Người hi sinh đất hồi sinh
Máu người hóa ngọc lung linh giữa đời

                                                             (Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng)

Luận điểm 2: Tnú – hình ảnh người anh hùng bất tử của dân làng Xôman.

– Đến với truyện ngắn “Rừng xà nu”, chúng ta được thả hồn theo những cánh rừng xà nu bát ngát, xanh rờn đến tận chân trời, được chứng kiến sức sống mãnh liệt không gì hủy diệt được của những cây xà nu. Mặt khác chúng ta lại khâm phục biết bao người anh hùng Tnú với những phẩm chất tốt đẹp. Xây dựng hình tượng người anh hùng này cũng là biểu hiện chất “Sử thi”.

• Tnú: Cuộc đời đầy đau khổ, cay đắng, bị kẻ thù giết hại cả gia đình, anh đã biến đau thương thành hành động trở thành anh lực lượng đi đánh giặc trả thù nhà nợ nước.

– Tnú và chặng đường đầu của cách mạng (Nuôi giấu cán bộ, làm liên lạc, bị giặc bắt)

– Vượt ngục trở về trực tiếp lãnh đạo dân làng Xô Man đánh giặc.

– Cùng một lúc phải hứng chịu hai tấn bi kịch do tội ác của giặc gây ra (vợ con bị giặc giết, bản thân anh bị giặc đốt cụt mười đầu ngón tay)

– Hình tượng đôi bàn tay Tnú (đôi tay cần cù lao động, đôi tay chứng nhân tội ác kẻ thù, đôi tay chưa bao giờ biết phản bội…)

“Gấp trang sách lại, hình ảnh Tnú với bao phẩm chất tốt đẹp vẫn sống mãi trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ. Tnú tiêu biểu cho hình mẫu người anh hùng dân tộc Tây Nguyên và cũng mang những nét chung của hinh mẫu anh hùng dân tộc thấm đượm chất “Sử thi”. Cùng với Trần Quốc Toản, La Văn Cầu, Bế Văn Đàn, Nguyễn Văn Trỗi và biết bao anh hùng, liệt sĩ khác các anh ca lên bài ca khải hoàn chiến thắng cho dân tộc Việt Nam yêu dấu” (Phan Huy Dũng)

Luận điểm 3. Tính cộng đồng trong tác phẩm:

Bên cạnh việc miêu tả,làm nổi bật lên hình ảnh của người anh hùng Tnú, người ta còn thấy được hình ảnh của những con người khác xung quanh nhân vật này, những người gan dạ dũng cảm trong cộng đồng làng Xô man. Mỗi con người là một sức mạnh, mỗi ngọn giáo đứng lên là thể hiện một lòng căm thù. Sức sống mãnh liệt đó được truyền từ đời này qua đời khác, từ thế hệ các cụ già đến những em bé còn ngây thơ nhưng đã có ý thức về nỗi đau mất nước, mất người thân, mất chủ quyền dân tộc. Tính chất cộng đồng được thể hiện trong tác phẩm rất rõ:

– Đó là hình ảnh sum vầy, quây quần bên nhau, nương tựa vào nhau “cơm nước xong từ phía nhà ưng có ai đấy đánh lên một hồi mõ dài ba tiếng , dân làng lũ lượt kéo tới nhà cụ Mết”. Tất cả mọi người từ các cụ già các cô gái, những đứa trẻ đoàn tụ bên nhau để nghe câu chuyện cuộc đời Tnú.

– Cụ Mết, thế hệ đi trước, một con người từng xông pha trong kháng chiến chống Pháp, nay lại tiếp tục sứ mệnh tiếp thêm sức mạnh cho con cháu, là người chỉ đường dẫn lối, là người truyền lại kinh nghiệm cho thế hệ mai sau “chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”.

– Dít, một cô gái với lòng dũng cảm, sự thông minh, ấn tượng bởi “đôi mắt mở to và bình thản”. Bình thản trước súng gươm của kẻ thù. Phẩm chất kìm nén đau thương để biến thành hành động, nhanh chóng trở thành cô bí thư chi bộ, cấp chỉ huy cao nhất của làng Xô Man.

– Rồi đến Heng “đội cái mũ sụp xin được của một anh giải phóng, mặc chiếc áo bà ba dài phết đít, vẫn đóng khố, súng đeo chéo ngang lưng ra vẻ một người lính thực sự.”, cũng dũng cảm, cũng nhanh nhẹn như Tnú. Cũng là một cây xà nu con mọc lên, tiếp bước với cây lớn làm nên rừng xà nu, làm nên bản làng Xô man mạnh mẽ.

• Có thể nói chất anh hùng tự ngàn đời đã chảy vào huyết quản của già làng Mết, từ già làng chảy qua Tnú, Tnú chảy qua Mai, Mai chảy qua Dít, Dít chảy qua Heng, Heng chảy vào những cây xà nu con mới mọc đã nhọn hoắt như những mũi lê chóc thẳng lên bầu trời. Dân tộc Việt Nam dù có hy sinh, dù có mất mát nhưng vẫn không bao giờ lùi bước trước quân thù:

Luận điểm 4. Nghệ thuật trong truyện ngắn Rừng Xà Nu

– Hình thức kể chuyện với cách tạo không khí truyện rất Tây Nguyên đậm đà màu sắc sử thi truyền thống. Bao trùm lên toàn bộ thiên truyện là một khung cảnh nghiêm trang, hào khí lại vừa mang đậm chất lãng mạn cuốn hút về làng Xô man bất khuất kiên cường.

– Giọng văn trong Rừng Xà Nu là giọng văn mang âm hưởng vang dội như tiếng cồng tiếng chiêng của đất rừng Tây Nguyên đại ngàn hùng vĩ. Giọng văn đó ẩn chứa chất liệu làm nên tính sử thi hoành tráng của tác phẩm.

– Kết cấu truyện theo lối vòng tròn hay còn gọi là đầu cuối tương ứng. Chính kết cấu đó tạo nên dư âm hùng tráng. Lối kết cấu này như cái khung bền vững để nhà văn khai triển câu chuyện. Đây là lối kết cấu vừa đóng vừa mở. Câu chuyện đóng lại để mở một câu chuyện khác. Điều này làm chúng ta tưởng tượng đây chỉ là một chương trong lịch sử ngàn đời của người Xô man, chỉ là một chương trong bản anh hùng ca vô tận của Tây Nguyên.

– Biện pháp nhân cách hóa, miêu tả cây xà nu như con người Xô Man. Vì vậy cây xà nu hiện ra như một nhân vật của câu chuyện. Nguyễn Trung Thành đã biến rừng xà nu thành cả một hệ thống hình ảnh được miêu tả song song với hệ thống hình tượng nhân vật.

– Sử dụng kiểu thời gian gấp khúc “đau thương nuôi con người vụt lớn lên” (Tnú ngày bị bắt mới chỉ đứng ngang bụng cụ Mết, 3 năm sau trở về đã là chàng thanh niên lực lưỡng; Dít ngày Tnus đi còn bé, 3 năm sau anh trở về Dít đã là bí thư chi bộ)

III. Kết bài

Khẳng định vẻ đẹp sử thi của tác phẩm, của thời đại. Liên hệ “Những đứa con trong gia đình”.

Nguồn: https://truongxaydunghcm.edu.vn
Danh mục: Kiến thức

Related Articles

Back to top button